Kinh tế chia sẻ làm phát sinh nhiều vấn đề quan hệ lao động mới. (Ảnh minh họa)
Nhiều vấn đề quan hệ lao động phát sinh
Tại Hội thảo “Thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ (KTCS) tại Việt Nam trong bối cảnh mới”, do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức mới đây, TS Bùi Thái Quyên - Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ LĐ-TB&XH cho rằng, vấn đề người lao động khi trở thành đối tác của các nền tảng công nghệ chính là vấn đề lao động phát sinh mới và đang gây tranh cãi.
Lấy ví dụ về mô hình vận tải công nghệ trong nền KTCS, bà Quyên cho biết, Nghị định 10/2020/NĐ-CP (thay thế Nghị định 86/2014/NĐ-CP) về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng ô tô quy định taxi công nghệ là một ngành kinh doanh có điều kiện, tuy nhiên chưa có quy định đối với xe ôm công nghệ.
Người lao động tham gia lĩnh vực vận tải công nghệ có nhiều thuận lợi như công việc linh hoạt và tự chủ; thời gian linh hoạt; công việc phù hợp với khả năng và sở thích cá nhân cũng như ít bị áp lực, không bị phân biệt đối xử... Tuy nhiên, người lao động trong lĩnh vực này không được đàm phán về các điều khoản hợp đồng (độc quyền nền tảng) như hợp đồng đối tác cung cấp dịch vụ với hãng xe, hợp đồng cung cấp dịch vụ với hợp tác xã… Họ không có ngày nghỉ cố định trong tháng, ngày cuối tuần, lễ, Tết. Họ nghỉ ốm sẽ không có lương, nếu nghỉ bảo trì xe là mất thu nhập.
Cùng với đó, hợp đồng giữa hai bên và các quy định của công ty nền tảng cho phép công ty chấm dứt hợp đồng một cách dễ dàng mà không cần phải bồi thường hoặc trợ cấp gì cho người lao động. Có những trường hợp khoá tài khoản hoặc chấm dứt hợp đồng nhưng hoàn toàn dựa trên nhận xét của khách hàng hoặc đánh giá đơn phương của phía công ty. “Điều mong muốn và quan tâm nhất hiện nay của các tài xế vận tải công nghệ là được ký hợp đồng lao động với các hãng xe, được đóng bảo hiểm và được đàm phán tỉ lệ chiết khấu, trang bị đồ bảo hộ. Bởi vậy, cần xác định rõ người lái xe công nghệ (grab bike) có phải là người lao động không?” - bà Quyên nhấn mạnh.
Trong khi đó, ông Lưu Đức Khải, Phó Trưởng ban phụ trách, Ban Nghiên cứu các vấn đề xã hội (CIEM) nhấn mạnh, bản chất của KTCS là một mô hình kinh doanh mới tận dụng lợi thế của phát triển công nghệ số. Mô hình kinh doanh này giúp tiết kiệm chi phí giao dịch và tiếp cận một số lượng lớn khách hàng thông qua các nền tảng số. Đối tượng tham gia KTCS bao gồm: cá nhân, DN xã hội, DN phi lợi nhuận, DN vì lợi nhuận, cộng đồng địa phương, Chính phủ.
Bên cạnh những lợi ích mang lại thì KTCS cũng có rủi ro. Thay vì mối quan hệ 2 bên trong các hợp đồng kinh tế, KTCS làm nảy sinh các mối quan hệ mới trên thị trường, cụ thể là phát sinh mối quan hệ 3 bên. Hơn thế, KTCS cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro trong việc đảm bảo lợi ích cho cả người mua và người bán. Trên thị trường, xung đột lợi ích giữa DN kinh doanh theo mô hình KTCS và truyền thống đã xảy ra, đồng thời các vấn đề thu thuế và các nghĩa vụ tài chính phát sinh cũng xuất hiện. Trong khi đó, cơ sở pháp lý trong quản lý Nhà nước về các loại dịch vụ KTCS còn rất thiếu. “Yêu cầu cấp bách về nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với loại hình KTCS là phải bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin, quyền riêng tư của công dân, tổ chức và chủ quyền trên không gian mạng” - ông Khải lưu ý.
Không cần thiết phải ban hành luật riêng
Tại Hội thảo, đại diện Bộ Tư pháp, bà Dương Thu Hương (Viện Khoa học Pháp lý) cho rằng, KTCS vẫn là một xu hướng, cần tiếp tục nghiên cứu, theo dõi sự phát triển của mô hình này.
Theo bà Hương, không cần thiết phải ban hành một luật riêng chỉ để điều chỉnh KTCS mà việc điều chỉnh pháp luật trong thời gian tới cần tập trung vào việc xử lý, hạn chế các rủi ro phát sinh do sự phát triển của KTCS. Chẳng hạn: rủi ro đối với người lao động, người tiêu dùng khi tham gia KTCS; rủi ro biến tướng thành “tín dụng đen” của các mô hình cho vay ngang hàng (P2P lending); rủi ro xâm phạm dữ liệu cá nhân...
Đại diện Bộ Tư pháp đưa ra một số gợi ý chính sách, trong đó nhấn mạnh, cần tư duy lập pháp “mở’ và “linh động” để các nhà làm chính sách, các nhà lập pháp đồng hành cùng các DN khởi nghiệp sáng tạo; với dịch vụ cho vay ngang hàng P2P lending, cần sớm ban hành khung khổ pháp lý, để thuận lợi cho các DN trong việc đăng ký kinh doanh, cũng như hoạt động dưới sự quản lý của cơ quan Nhà nước. Đặc biệt, Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện và hỗ trợ cho các DN truyền thống chuyển đổi hình thức kinh doanh. Cùng với đó là tăng cường bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ quyền lợi người lao động trong nền KTCS, bảo vệ dữ liệu cá nhân; Tăng cường quản lý thuế với các nhà cung cấp nền tảng trung gian.
Thanh Thanh - Pháp luật Plus