Cũng như những dân tộc khác, Tết là ngày người Mường nghỉ ngơi, vui chơi, họp mặt
Đánh chiêng, đánh trống đón giao thừa
Những ngày giao thời giữa năm cũ và năm mới cũng là những ngày mọi người nghỉ ngơi; để quan tâm, chăm sóc phần mộ tổ tiên; đi thăm chúc Tết người bề trên, người có công giúp mình trong năm cũ.
Về mặt thời gian, người Mường ăn Tết vào cuối tháng Chạp của năm cũ và đầu tháng Giêng của năm mới. Lịch Mường xưa tính theo tuần trăng, cách tính khác chút với người Kinh, tính “ngày lui, tháng tới”.
Về ngày, vẫn tính theo âm lịch, song lui lại 1 ngày. Ngày âm lịch là ngày 15 trăng tròn, lịch Mường tính lui lại một ngày là ngày 14. Tháng vẫn cùng tính như âm lịch của người Kinh.
Duy chỉ có ở vùng Mường Bi (nay cơ bản thuộc 7 xã: Phú Vinh, Mỹ Hoà, Phong Phú, Tuân Lộ, Địch Giáo, Quy Mỹ, Do Nhân... của huyện Tân Lạc, Hòa Bình) tính theo công thức “lui một ngày, tới 3 tháng”. Ngày vẫn lui 1 ngày như kể trên song tính hơn 3 tháng. Tháng Giêng của người Mường ở Mường Bi gọi là tháng 3.
Thông thường vào giữa hay nửa cuối tháng Chạp, nhiều gia đình đã bắt đầu chặt nứa hay cây dang loại bánh tẻ về để tước, chẻ lạt gói bánh chưng, làm cặp nướng thịt.
Việc trồng cây nêu cũng được nhiều gia đình tiến hành, cây nêu được trồng ngay cạnh ngõ ra vào, trong sân hay phía trước của ngôi nhà sàn. Đây là một biểu tượng, một tín hiệu văn hóa. Tục lệ có từ ngàn xưa, thuở hồng hoang mệ vua Hoàng Bà đi đánh quỷ. Lũ quỷ thua to bỏ chạy.
Theo chỉ dạy của mệ vua, các nhà đều cắm một cây nêu để báo tin thắng trận và nhận đất đai cho dân Mường. Sau này nó có ý nghĩa là sự bố cáo với đất trời về sự tồn tại của gia đình mình và cũng là trấn tà không cho lũ quỷ thâm nhập vào nhà. Tục lệ này được duy trì đến ngày nay và cây nêu được cắm mỗi khi Tết đến, Xuân về với ý nghĩa như trên.
Người Mường, trừ vùng Mường Bi, có tục ngày 27 tháng Chạp, toàn bộ con cháu, nhất là nam giới vào khu mồ mả tổ tiên để dọn dẹp, phát quang cây, sửa sang mộ, đắp đất thêm cho những ngôi mộ bị sạt lở.
Theo tục lệ của người Mường, trong một năm nếu không có gì bất thường xảy ra như: Tang ma, biến động lớn trong mồ mả, một năm người Mường chỉ vào trong các khu đống mả của mình vào tiết thanh minh và ngày 27 tháng Chạp âm lịch, chuẩn bị cho tổ tiên cùng ăn Tết với con cháu. Đây cũng là ngày trong các khu mộ, người Mường kể, nói về dòng tộc, dòng giống, gia phả với con cháu.
Tục gội đầu giao thừa
Ngày 27 tháng Chạp ở vùng Lạc Sơn còn gọi là ngày tha lả (rửa lá): Chị em phụ nữ mang toàn bộ bát đũa, xoong, nồi, lá dong... ra sông, suối rửa sạch sẽ. Các nông cụ như cày, bừa, cuốc, xẻng cũng được rửa sạch sẽ để chúng cùng ăn Tết. Đây là hình thức “tẩy trần” sạch sẽ để đồ vật và con người cùng đón năm mới, như thế mới gặp nhiều may mắn, an lành.
Ngày 28 tháng Chạp, nhiều nhà bắt đầu gói bánh chưng và bánh uôi. Ngày 29 tháng Chạp theo lịch Mường, tức ngày 30 Tết theo âm lịch, người Mường gọi ngày này là ngày “chín lụn”, có bữa cơm “chín lụn”; giống như người Kinh gọi là bữa cơm tất niên, ăn vào buổi tối; bữa cơm đoàn tụ gia đình trong năm. Đây là bữa cơm quan trọng và thiêng liêng giã từ năm cũ, chuẩn bị đón chào năm mới. Bao thức ngon vật lạ được chuẩn bị suốt một năm đều được chế biến cho bữa cơm này.
Ngày chín lụn cũng là ngày các thầy mo mang túi “khót” của mình ra, lấy rượu ngon rửa sạch sẽ. Đây cũng là ngày họ truyền dạy các lời khấn quan trọng, các bí quyết hành nghề cho con cháu và học trò.
Đón giao thừa của người Mường rất giản đơn: Nhiều nhà đánh chiêng, đánh trống, con cháu ra vó nước lấy nước về đặt trên bàn thờ tổ tiên. Nước này ở vùng Kim Bôi gọi là nước Tiên, ở vùng Lạc Sơn gọi là nước Thặng Thiên.
Ở vùng Mường Bi còn có tục gội đầu giao thừa, thậm chí có người còn tắm trong đêm giao thừa, ý là gột rửa mình sạch sẽ để sang năm mới cho mọi điều tốt lành, đẹp đẽ và may mắn hơn.
Trong các nhà lang, nhà giàu còn có tục xuống chuồng đếm trâu, bò, lợn... cầu mong trong năm mới chúng sinh sôi nhiều hơn. Sau đó, cả nhà cùng sắp mâm thờ cúng tổ tiên, mâm cúng thành hoàng làng Mường, mâm cúng thổ công vua bếp và ông “cun dòil”, đây là vị thần bảo trợ nông nghiệp của người Mường.
Vùng Mường Bi, Mường Động còn cúng mời cả vua Cả Ba Vì tức là Thánh Tản. Ngày Tết người Mường cũng thờ cả bên nhà ngoại, nếu như bố, mẹ vợ của thân chủ đã mất. Thông thường họ chỉ thờ 1-2 đời.
Tục cúng thờ tổ tiên của người Mường là thờ đích danh chứ không thờ chung như các dân tộc khác. Ví dụ người Kinh chỉ có một mâm cỗ, một ban thờ mời tất cả tổ tiên về. Người Mường lại khác, các mâm thờ các đời thường thờ đích danh, ví dụ mâm thờ ông, bà nội đã khuất người Mường sắp mâm riêng và đặt lên đó hai bát cơm, hai bánh chưng, bánh uôi, hai đôi đũa; nếu ông nội có 2-3 bà vợ thì theo đó người Mường đặt lên tương ứng 2-3 bát cơm, đôi đũa... Việc thờ này tùy theo từng gia đình, ít nhất họ cũng thờ tới ba đời.
Múa hát mừng năm mới
Mời trâu, bò ăn Tết
Cúng mời tổ tiên xong, người Mường cho trâu, bò ăn Tết, thường cho chúng 1-2 bó lúa như sự tri ân, cảm ơn chúng đã vất vả cày bừa cùng con người suốt năm qua. Các đồ nông cụ như: cuốc, cày, bừa được đặt lên trên cái sạp, người Mường lấy ra cái nong, nia, sau đó, bày các loại bánh trái.
Vùng Lạc Sơn và nhiều vùng khác có tục đi năm mới, nhiều nơi gọi là đi phần, tức là mang phần cho bề trên, cụ thể là: Bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ, các anh bên nhà vợ, các nhà thầy thuốc mình đã mang ơn năm qua. Tục này thường đi trong nhiều đời, nếu người được mang phần như bố mẹ vợ không còn nữa thì con cháu phải mang phần đến nhà ngoại và đặt vào bàn thờ của người đã khuất.
Ngày đi năm mới bắt đầu từ ngày 30 Tết đến ngày mồng 7 tháng giêng, tức là ngày Khai hạ. Lễ đi phần năm mới rất giản đơn, chỉ có một gói thịt lợn, một gói cơm nếp, một chai rượu và hai cái bánh chưng, ngày nay có thêm gói mứt, gói kẹo, hay chè, thuốc lá. Đây là phong tục rất nhân văn biểu thị sự tri ân, biết ơn với bề trên, với những người mình mang ơn.
Hết 30 Tết, khi thầy cúng mời tổ tiên, thần linh về chốn của mình, các mâm thờ được cất dọn đi, song Tết vẫn chưa hết. Sang bảy ngày đầu tháng Giêng mọi người đi chơi Xuân và chúc tụng nhau.
Ngay ngày mồng 1 Tết (tức mồng 2 theo âm lịch) các “phường bùa” bắt đầu đi “xắc bùa phát rác”, thực chất là đi các gia đình để chúc Tết. Cách chúc Tết này rất độc đáo và chỉ có riêng ở người Mường.
Phường bùa thực chất là đội hình diễn tấu chiêng có từ 6 - 12 người, trong đó có một người đứng đầu gọi là ông trùm phường. Đoàn đi đến đâu tấu chiêng xắc bùa đến đó, khi vào đến sân nhà ai ông trùm phường cất bài hát chúc Tết gia đình, đó là bài phát rác, tức là mở nước, chúc cho gia đình chủ nhà mạnh khỏe, sang mùa năm mới làm ăn phát đạt, mát lành như nước, trồng lúa gặp đủ nước, chăn nuôi gia súc phát triển, làm ăn giàu có.
Sau đó gia chủ xuống sân mời phường bùa lên nhà uống chén rượu xuân. Tục lệ này còn có ý nghĩa mở nước đầu năm mới cho cư dân nông nghiệp vào làm vụ chiêm, tiếng chiếng tấu bài sắc bùa có nhiều ý nghĩa song có một ý nó là tượng trưng cho tiếng sấm gọi mưa xuống.
Làm cơm mừng năm mới
Ngày mồng 7 tháng giêng tức là ngày Khai hạ, đây cũng là ngày cuối cùng của Tết. Các gia đình tổ chức Tết lại, tức là làm làm lại Tết, cũng sắp các mâm cúng mời tổ tiên và thành hoàng, thổ công vua bếp ăn Tết ngày cuối của Tết. Vào ngày này hầu như các làng Mường đâu đâu cũng tổ chức các lễ hội “thuổng Mùa”, tức là lễ Khai hạ đầu năm mới. Đây là lễ hội đầu năm mới có quy mô rộng khắp trong xứ Mường Hòa Bình. Sau ngày này, việc ăn Tết đã hết và mọi người bắt đầu ra đồng cày, cấy vụ lúa đầu trong năm.
Tết năm mới của người Mường là phong tục đẹp chứa đựng nhiều biểu tượng, tín hiệu văn hóa từ ngàn xưa truyền lại, mang tính nhân văn cao cả, hiện vẫn được người Mường lưu truyền.