Bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự có vô tội?

14/01/2024 16:21

Kinhte&Xahoi Theo luật sư, bản chất của miễn trách nhiệm hình sự là bị cáo có vi phạm pháp luật, hành vi cấu thành tội phạm nhưng do chính sách khoan hồng, do nguyên tắc phân hóa phân loại nên được miễn chứ không phải là không có tội.

Mới đây, TAND TP Hà Nội đã tuyên án phạt 38 bị cáo trong vụ án Công ty cổ phần công nghệ Việt Á (Công ty Việt Á) về các tội danh: Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng; Vi phạm quy định về quản lý tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí; Đưa hối lộ; Nhận hối lộ; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi.

Các bị cáo trong vụ Việt Á.

Các bị cáo đã nhận mức án theo đúng với hành vi phạm tội của mình. Riêng đối với bị cáo Nguyễn Thành Danh (cựu Giám đốc CDC Bình Dương) được HĐXX áp dụng chính sách "khoan hồng đặc biệt", miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.

Vậy miễn trách nhiệm hình sự thì bị cáo có tội hay không? Liên quan đến vấn đề trên, trao đổi với PV Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, để phân hóa hành vi phạm tội, thể hiện chính sách khoan hồng nhân đạo của pháp luật, khuyến khích người thực hiện hành vi phạm tội khắc phục hậu quả, sửa chữa lỗi lầm, giảm bớt thiệt hại cho xã hội, pháp luật có quy định những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo)... Khoản 2, Điều 8, Bộ luật Hình sự quy định" "Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác".

Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội.

Cụ thể, theo Luật sư, tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật sẽ quyết định đến trách nhiệm hình sự. Nếu tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì hành vi vi phạm pháp luật đó sẽ được xử lý bằng các biện pháp khác mà không phải là chế tài hình sự.

Điều 29, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự. Theo đó, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi có quyết định đại xá.

Ngoài ra, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây: Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

Cùng với đó, người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

Bởi vậy, nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 29, Bộ luật Hình sự nêu trên thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể ban hành quyết định miễn trách nhiệm hình sự.

Trong đó có 06 trường hợp miễn nhiệm sau: Thay đổi chính sách, pháp luật khiến hành vi không còn nguy hiểm (hành vi không còn được xác định là tội phạm nữa, đã được "phi hình sự hóa" trong quá trình sửa đổi bộ luật hình sự); có quyết định đặc xá; Quá trình thực hiện thủ tục tố tụng hình sự mà có chuyển biến tình hình khiến hành vi không còn nguy hiểm; Trong quá trình tố tụng người bị buộc tội mắc bệnh hiểm nghèo không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc; Khiến vụ việc được giải quyết nhanh chóng, dứt điểm, giảm bớt hậu quả thiệt hại cho xã hội; Lập công lớn hoặc có thành tích đặc biệt đối với xã hội; Trường hợp hành vi phạm tội với lỗi vô ý, hậu quả không đáng kể hoặc với lỗi cố ý nhưng thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hậu quả đã được khắc phục, người bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự thì cũng có thể được xem xét miễn trách nhiệm hình sự.

Do đó, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 29, Bộ luật Hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ quyết định miễn trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.

Cũng theo Luật sư, thời hạn tạm giam, tạm giữ của bị cáo sẽ được bù trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, thời hạn cải tạo không giam giữ.

Tuy nhiên, đối với trường hợp bị can, bị cáo được Tòa án miễn trách nhiệm hình sự thì thời hạn tạm giam này sẽ không được tính toán để bù trừ, bồi thường.

Nếu Tòa án tuyên bị cáo không có tội thì thời hạn tạm giam mới là căn cứ để tính toán về mức bồi thường thiệt hại do bị giam oan sai.

Luật sư cũng cho hay, bản chất của miễn trách nhiệm hình sự là bị cáo có vi phạm pháp luật, hành vi cấu thành tội phạm nhưng do chính sách khoan hồng, do nguyên tắc phân hóa phân loại nên được miễn chứ không phải là không có tội. 

Duy Khương - Pháp luật Plus

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

link bài gốc https://www.phapluatplus.vn/dien-dan-luat-su-chuyen-gia/bi-cao-duoc-mien-trach-nhiem-hinh-su-co-vo-toi-d203337.html