Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sinh năm 1906 tại Hà Nội, mất năm 2012 tại Paris (Pháp), thọ 106 tuổi. Sinh ra trong một gia đình giàu có, cha là ông Bùi Quang Chiêu - một kỹ sư canh nông đầu tiên của Việt Nam, chính khách có tiếng ở Nam kỳ thời Pháp thuộc. Ngay từ khi sinh ra Henriette đã có quốc tịch Pháp, đó là lý do tên bà đặc biệt như vậy.
Bà Henriette Bùi Quang Chiêu thời niên thiếu và khi về già
Ngay từ khi còn nhỏ, Henriette nổi tiếng thông minh, đến năm 15 tuổi, được cha đưa sang Pháp, du học tại trường Lycée Fenelon ở Paris. Một năm sau ngày du học, mẹ của Henriette mất vì bệnh lao phổi. Từ sự quý mến, nể phục Louis Bùi Quang Chiêu - người anh ruột, cũng là bác sĩ chuyên về bệnh lao nổi tiếng tại Sài Gòn, cùng với cái chết của mẹ đã làm cho Henriette quyết chí theo học Đại học Y khoa Paris vào năm 1927.
Quyết định này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời bà, bởi thời điểm ấy, việc phụ nữ học lên đại học đã ít, huống chi còn liên quan đến ngành Y. Cái tên Henriette xuất hiện tại trường đại học danh tiếng của Pháp đã gây chấn động giới y học lúc bấy giờ, đồng thời là bước đột phá trong hệ thống giáo dục nước này.
Henriette còn gây ấn tượng vì biết đến 7 ngoại ngữ, gồm: Pháp, Anh, Trung, Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp và Latinh.
Năm 1932, Henriette tốt nghiệp đại học. Sau 2 năm thực tập, bà là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên lấy bằng bác sĩ y khoa ở Pháp. Khi tốt nghiệp, bà dự định viết luận án về đề tài "Thụ tinh nhân tạo cho những người bị hiếm muộn". Tuy nhiên vào thời đó, đề tài này quá mới mẻ và gây nhiều tranh cãi, bà đành phải đổi đề tài.
Đề tài luận án sau đó của bà đạt loại xuất sắc, được Hội đồng giám khảo khen ngợi và thưởng huy chương vào năm 1934.
Bà từng kết hôn với ông Vương Quang Nhường (vào năm 1935) - tiến sĩ Luật đầu tiên của Việt Nam theo sự sắp xếp của gia đình, nhưng đã đường ai nấy đi sau gần 2 năm chung sống.
Sau khi về nước, Henriette bắt đầu làm việc trong lĩnh vực y tế. Bất chấp việc bị coi thường bởi những đồng nghiệp đi trước, phân biệt giới tính, năm 29 tuổi bà nhận chức Trưởng khoa Hộ sinh tại Bệnh viện Chợ Lớn, trở thành người phụ nữ đầu tiên nắm giữ chức vụ trong hệ thống bệnh viện thời bấy giờ.
Hơn 40 năm theo nghề y, bà Henriette làm việc cả ở Việt Nam và Pháp. Năm 1957, bà sang Nhật học thêm châm cứu để áp dụng trong ngành sản khoa. Năm 1961, bà sang Pháp sinh sống và mở phòng mạch riêng.
Trong thời gian này, bà tái giá với kỹ sư, bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích - người từng tốt nghiệp kỹ sư cầu cống từ trường nổi tiếng bậc nhất xứ Pháp École Polytechnique - ngôi trường vốn chỉ dành riêng cho sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp và thế giới thời ấy.
Năm 1965, ông Nguyễn Ngọc Bích bị ung thư vòm họng. Bà Henriette đưa chồng trở về Việt Nam để có thể sống những ngày cuối cùng trên mảnh đất quê hương. Cũng ngay trong năm đó, ông Bích mất. Còn lại một mình ở Việt Nam, bà Henriette tích cực tham gia các hoạt động khám, cứu chữa bệnh cho nhân dân bị tai nạn trong chiến tranh, kể cả trong vùng giải phóng. Mãi đến năm 1971, bà sang lại Pháp tiếp tục làm nghề y.
Bà Henriette qua đời vào ngày 27/4/2012 ở Paris, thọ 106 tuổi. Trước lúc ra đi, bà hiến tặng biệt thự tư gia của mình ở số 28 đường Testard làm cơ sở cho trường Đại học Y khoa Sài Gòn, thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Hiện, nơi này là địa điểm thuộc Bảo tàng Chứng tích chiến tranh ở đường Võ Văn Tần, TP HCM.
nguonluc