Diễn đàn Hợp tác xã Quốc gia năm 2024: Phát triển bền vững chuỗi giá trị sản phẩm

11/04/2024 13:23

Kinhte&Xahoi Trong khuôn khổ Tháng hành động vì hợp tác xã năm 2024, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức Diễn đàn Hợp tác xã Quốc gia năm 2024 với chủ đề “Phát triển bền vững chuỗi giá trị sản phẩm”.

Đúng 8 giờ sáng ngày 11/4, Diễn đàn Hợp tác xã Quốc gia năm 2024 chính thức khai mạc.

Toàn cảnh Diễn đàn Hợp tác xã Quốc gia năm 2024.

Diễn đàn do Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái chủ trì; Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Cao Xuân Thu Vân và Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Đỗ Thành Trung đồng chủ trì.

Tham dự Diễn đàn có đại diện các Bộ, ban ngành Trung ương, Liên minh HTX các tỉnh, thành phố, các Liên hiệp HTX và các HTX tiêu biểu, điển hình trên cả nước.

Diễn đàn được tổ chức nhằm trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, tìm kiếm các giải pháp phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (HTX) gắn với phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức.

Đặc biệt, tại Diễn đàn, các đại biểu sẽ cùng nhau thảo luận về cơ sở xây dựng và phát triển bền vững chuỗi giá trị sản phẩm trong khu vực kinh tế tập thể (KTTT), HTX; giải quyết các vướng mắc của các HTX tại các địa phương nhằm tìm ra các phương thức hỗ trợ HTX phát triển bền vững chuỗi giá trị.

Kinh tế tập thể, HTX là “hơi thở” của chuỗi giá trị

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh, phát triển bền vững chuỗi giá trị sản phẩm là vấn đề được đề cập nhiều trong thời gian qua không chỉ ở Việt Nam mà còn trên phạm vi toàn cầu, là đòi hỏi khách quan cũng như yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển. Khu vực KTTT không nằm ngoài quỹ đạo đó.

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân phát biểu khai mạc Diễn đàn.

Hiện nay, cả nước có hơn 31.700 HTX, 158 liên hiệp HTX và 73 nghìn tổ hợp tác. Bên cạnh đó, kể từ tháng 7/2024, Luật HTX năm 2023 sau khi được Quốc hội thông qua, sẽ có hiệu lực thi hành gồm 12 Chương, 115 Điều, với nhiều điểm mới nổi bật giúp các tổ chức KTTT phát triển hiệu quả, năng động và bền vững.

Theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, chuỗi giá trị có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các HTX. Và ngược lại, KTTT, HTX cũng là “hơi thở” của chuỗi giá trị đa dạng nhiều ngành hàng ở khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp.

“Câu chuyện sản xuất theo chuỗi giá trị không phải là yêu cầu mới. Với xu hướng phát triển kinh tế bền vững, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn như hiện nay, vai trò của KTTT, HTX là yếu tố không thể bỏ ngỏ trong việc tham gia tạo dựng các chuỗi giá trị có tính bền vững.

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân cho biết, hiện nay, trong hơn 31.000 HTX, có hơn 20.000 HTX nông nghiệp, chiếm trên 64% tổng số HTX cả nước. Trong gần 6 triệu thành viên HTX có trên 3,8 triệu là nông dân, chiếm trên 63% tổng số thành viên. Nhiều loại hình HTX liên kết trong sản xuất kinh doanh tạo nên chuỗi liên kết đa giá trị, bền vững.

Không chỉ ở nông nghiệp, việc tạo nên chuỗi giá trị sản phẩm có tính phát triển bền vững đã và đang trở thành xu thế tất yếu của KTTT, HTX ở những lĩnh vực khác. Và những HTX, liên hiệp HTX, tổ hợp tác tiên phong chuyển đổi và vận hành theo phương châm sản xuất, kinh doanh có trách nhiệm với cộng đồng, xã hội, môi trường, thính ứng cao và chống chịu cao, giúp chuỗi giá trị phát triển bền vững trước các biến đổi tiêu cực từ bên ngoài.

Vì vậy, ở cấp độ quốc gia, địa phương phải tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp luật, nâng cao năng lực quản trị quốc gia, địa phương, cải thiện môi trường kinh doanh nhằm thúc đẩy KTTT phát triển chuỗi giá trị bền vững..

Ở cấp độ HTX, liên hiệp HTX và tổ hợp tác, để phát triển chuỗi giá trị sản phẩm bền vững đòi hỏi sự đổi mới tư duy, đảm bảo liêm chính trong sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, gia tăng giá trị thông qua thực hành quản trị kinh doanh bền vững, thúc đẩy tính đa dạng và bao trùm trong kinh doanh theo mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

“Trong Diễn đàn hôm nay, Liên minh HTX Việt Nam hy vọng sẽ đúc kết lại những ý kiến đóng góp, thảo luận từ đại diện các bộ ngành liên quan, các chuyên gia, cộng đồng HTX và các DN để cùng nhau xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm bền vững và nâng lên tầm cao mới trong khu vực KTTT, HTX”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam bày tỏ mong muốn.

Diễn đàn HTX Quốc gia 2024 tiếp tục là cầu nối, là kênh tiếp xúc HTX với DN, HTX với chính quyền các cấp, giữa HTX với nhà khoa học… với tinh thần chung là thúc đẩy liên kết, phát huy thế mạnh của KTTT, cùng hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, phát triển chuỗi giá trị bền vững.

“Tin rằng với những ý kiến đóng góp, những giải pháp phát huy cơ chế chính sách nói chung, các kiến nghị, đề xuất nhằm thúc đẩy phát triển chuỗi giá trị bền vững được đưa ra một cách thiết thực tại Diễn đàn, sẽ nhận được sự quan tâm, tiếp thu sâu sắc từ Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương. Để từ đó, việc phát triển bền vững trong chuỗi giá trị của HTX sẽ mang lại kết quả cụ thể hơn, đồng bộ và hữu ích hơn, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam ngày càng bền vững”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam kỳ vọng.  

Phát triển HTX sẽ giúp thúc đẩy sản xuất theo chuỗi giá trị

Về phát triển liên kết theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) cho biết, cả nước có 2.204 HTX, 517 tổ hợp tác, 1.091 DN và 186.829 hộ nông dân tham gia. Các địa phương đã phê duyệt được 2.146 dự án, kế hoạch liên kết theo Nghị định số 98, trong đó: trồng trọt 1.504 dự án, chăn nuôi 489 dự án, lâm nghiệp 61 dự án, thủy sản 92 dự án.

Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Lê Đức Thịnh khẳng định, phát triển HTX sẽ giúp thúc đẩy sản xuất theo chuỗi giá trị.

Nghị định số 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp quy định 7 hình thức liên kết gắn sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Trong liên kết chuỗi giá trị, HTX nông nghiệp vừa đóng vai trò thúc đẩy liên kết ngang giữa các hộ nông dân thông qua các hành động tập thể để tổ chức sản xuất, vừa thúc đẩy liên kết dọc với DN theo chuỗi giá trị. Trong đó, HTX nông nghiệp tham gia tích cực vào tổ chức thực hiện "dồn điền, đổi thửa", quy hoạch vùng sản xuất. Hiện nay, ở nhiều địa phương, HTX nông nghiệp giúp chính quyền thực hiện “dồn điền đổi thửa” theo hướng “liền vùng, cùng trà, khác chủ”, thực hiện quy hoạch vùng sản xuất tập trung.

Tổ chức các hành động tập thể để sản xuất ra khối lượng sản phẩm lớn, đồng đều, chất lượng đảm bảo yêu cầu của DN, giảm chi phí sản xuất. DN nông nghiệp là tác nhân trung gian chủ đạo, đóng vai trò khâu nối và thúc đẩy liên kết dọc với DN.

Thời gian qua, Chính phủ có nhiều chính sách khuyến khích HTX tham gia liên kết chuỗi giá trị. Như về ưu đãi tín dụng, HTX được vay tín dụng ưu đãi để sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết tối đa bằng 70% giá trị của dự án theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Ngoài ra, HTX còn được giảm lãi suất cho vay với mức tối thiểu 0,2%/năm khi tham gia mua bảo hiểm cho đối tượng sản xuất nông nghiệp hình thành từ nguồn vốn vay theo Điều 16, Nghị định 55/2015/NĐ-CP.

Cùng với đó, Chính phủ có thêm các chính sách ưu đãi giao, cho thuê đất, ưu đãi thuế; hỗ trợ bồi dưỡng, đào tạo; hỗ trợ xúc tiến thương mại và ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới; đầu tư kết cấu hạ tầng…

Tuy nhiên, ông Thịnh cho hay, thực tế hiện nay, nhiều DN rất khó thực hiện liên kết do không tìm được HTX nông nghiệp đủ mạnh để có thể đứng ra làm đầu mối, nên DN phải hợp đồng trực tiếp với từng hộ nông dân, dẫn đến chi phí cao và dễ gặp rủi ro.

“Nhiều DN rất muốn tìm HTX nông nghiệp để liên kết nhưng gặp khó khăn vì không có HTX hoạt động có hiệu quả. Rõ ràng, phát triển HTX nông nghiệp không chỉ giúp cho hộ nông dân thành viên, mà còn thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị nông sản”, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn khẳng định.

Theo đó, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho rằng cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho HTX thông qua bồi dưỡng, nâng cao trình độ và năng lực cho cán bộ quản lý chủ chốt của HTX về trình độ quản trị, kỹ năng xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, kiến thức quản trị; đào tạo về chuyên môn kỹ thuật cho thành viên HTX áp dụng quy trình công nghệ cao, sản xuất theo tiêu chuẩn, chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường.

Cùng với đó, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để DN liên kết với HTX. DN được xác định là đầu tàu của liên kết, vì thế để thúc đẩy HTX tham gia liên kết cần khuyến khích DN đầu tư liên kết thông qua HTX. Tạo điều kiện hình thành những mô hình liên kết hiệu quả giữa DN - HTX - nông dân gắn với ứng dụng công nghệ cao.

Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng sản phẩm sản xuất theo chuỗi, gắn với truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đáp ứng các điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm; Rà soát và đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ HTX nông nghiệp và liên kết.

Bên cạnh việc tiếp tục triển khai hiệu quả các cơ chế chính sách hiện nay, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn nhấn mạnh, cần tiếp tục rà soát, bổ sung, hướng dẫn thực hiện cơ chế chính sách, nhất là tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc mà các HTX hiện đang gặp phải như: tiếp cận các nguồn tín dụng; hỗ trợ thủ tục xác nhận, chứng nhận sở hữu đất đai của HTX và thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp để HTX xây dựng hạ tầng; hỗ trợ kết cấu hạ tầng sản xuất, đặc biệt là hạ tầng phục vụ chế biến, bảo quản và thương mại; miễn thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm trao đổi giữa các thành viên HTX với nhau.

Tạo cơ hội để người sản xuất và người làm KH&CN gặp nhau, “liên kết cùng phát triển”

Ông Trần Hồng Thái, Thứ trưởng Bộ KH&CN nhận định, Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế đang là xu hướng chủ đạo và phát triển mạnh mẽ, với nhiều thời cơ, thuận lợi và không ít khó khăn đối với cộng đồng HTX.

Thời gian qua, Bộ KH&CN đã xây dựng, trình các cấp có thẩm quyền và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về KH&CN nhằm khuyến khích, hỗ trợ, huy động đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ trong các ngành, lĩnh vực, trong đó các HTX cũng là một trong các đối tượng được thụ hưởng. Bên cạnh đó, các chính sách cũng được cụ thể hóa trong quá trình chỉ đạo tổ chức và thực hiện.

Ông Trần Hồng Thái, Thứ trưởng Bộ KH&CN.

Những nội dung hỗ trợ của các chính sách về KH&CN liên quan đến phát triển kinh tế tập thể, HTX, gồm các nhóm chính như: Chính sách hỗ trợ liên kết thực hiện nhiệm vụ KH&CN; Chính sách hỗ trợ nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; Chính sách hỗ trợ thực hiện nghiên cứu và chuyển giao công nghệ (Chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển tiềm lực KH&CN; Chính sách hỗ trợ đối với DN khoa học công nghệ…).

Theo Thứ trưởng Trần Hồng Thái, kết quả hoạt động KH&CN đối với kinh tế tập thể, HTX đã góp phần thúc đẩy sự phát triển thông qua việc triển khai xây dựng nhiều mô hình ứng dụng và chuyển giao KH&CN ở các địa phương góp phần giải quyết các vấn đề: Nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo và chất lượng gạo xuất khẩu; phát triển sản xuất các loại nông sản nhiệt đới có lợi thế so sánh cao; ứng dụng và phát triển các sản phẩm công nghệ sinh học…

Chỉ tính riêng đối với Chương trình hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KH&CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn từ năm 2016 đến nay đã có 28 dự án được phê duyệt và triển khai do HTX là tổ chức chủ trì hoặc tham gia với tổng kinh phí thực hiện trên 200 tỷ đồng, trong đó kinh phí hỗ trợ từ nguồn ngân sách trung ương gần 90 tỷ đồng.

Hàng năm, Bộ KH&CN phối hợp với Liên minh HTX Việt Nam triển khai các hoạt động tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng và sở hữu công nghiệp như thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP, Global GAP), thực hành nông nghiệp hữu cơ, năng suất xanh; Truy xuất nguồn gốc; Cải tiến năng suất (áp dụng công cụ 5S - Kaizen); Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000, ISO 22000. ISO 14000, tiêu chuẩn hữu cơ, 4C (Bộ quy tắc chung cho cộng đồng cà phê), Rainforest (Tiêu chuẩn nông nghiệp bền vững đối với trang trại và nhà máy chế biến nông sản), UTZ (nông nghiệp bền vững), Fairtrade (thương mại công bằng), tiêu chuẩn Halal…

Thông qua việc triển khai các hoạt động hỗ trợ (tư vấn, đào tạo, hướng dẫn áp dụng…) giúp các HTX cải thiện phương pháp quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng doanh thu cho HTX và thu nhập của thành viên HTX.

Tuy nhiên, Thứ trưởng Trần Hồng Thái cũng nhìn nhận trình độ KH&CN trong nông nghiệp của Việt Nam còn thấp và chậm phát triển, có khoảng cách khá xa so với thế giới và khu vực, với hiện trạng hiện tại phần lớn chưa thể tiếp cận được nền nông nghiệp 4.0.

Năng lực nghiên cứu khoa học của các HTX còn hạn chế và chưa đồng đều giữa các vùng miền, đặc biệt công tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tại các tỉnh miền núi còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hiệu quả.

Đáng chú ý, số lượng HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất còn thấp, hiện chỉ chiếm 9,37% tổng số HTX nông nghiệp. Tính đến tháng 12/2021, chỉ có 1.718 HTX nông nghiệp có ứng dụng công nghệ cao.

Cùng với đó, thiếu đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao và chuyên sâu đáp ứng nhu cầu phát triển của HTX, thiếu các chính sách ưu đãi với người làm công tác nghiên cứu, nhất là trong các HTX mà người làm công tác nghiên cứu khó có thể có thu nhập cao. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ KH&CN đầu ngành ngày càng thiếu vắng.

Để nâng cao hiệu quả ứng dụng KH&CN đối với các HTX, Thứ trưởng Bộ KH&CN cho rằng cần tăng tỷ trọng đầu tư cho các hoạt động KH&CN phục vụ phát triển HTX, ưu tiên hỗ trợ các HTX nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ 4.0 trong sản xuất.

Đồng thời, tăng cường hoạt động liên kết trong nghiên cứu KH&CN gắn với đổi mới sáng tạo giữa các HTX và các viện nghiên cứu, trường đại học để tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn cung công nghệ trong nước, tăng cường khả năng hấp thụ, làm chủ và phát triển công nghệ của các HTX.

Đồng thời, một trong những giải pháp được đề cập là thúc đẩy phát triển thị trường KH&CN cho các HTX, nhất là các thị trường về mua bán bản quyền giống cây, con; đặt hàng của các HTX với các tổ chức KH&CN; mở rộng các hoạt động hội chợ, sàn giao dịch công nghệ, techmart, kết nối cung cầu... để tạo điều kiện tốt nhất cho cho người sản xuất, người làm công tác KH&CN có được cơ hội gặp gỡ để “liên kết cùng phát triển”.

Ngoài ra, tăng cường phối hợp trong tổ chức nghiên cứu triển khai giữa Bộ KH&CN với Liên minh HTX Việt Nam và các bộ ngành, địa phương có liên quan; Tăng cường nghiên cứu và đưa vào ứng dụng các hệ thống quản lý chất lượng, tiêu chuẩn và các công cụ nâng cao năng suất.

Kinh nghiệm phát triển HTX ở Hà Lan

Hà Lan là nước có nhiều kinh nghiệm trong xây dựng và phát triển HTX, đồng thời tích cực thu hút thành viên tham gia. Tổ chức Hỗ trợ Phát triển Hà Lan (Agriterra) Việt Nam đã tích cực phối hợp với Liên minh HTX Việt Nam để chia sẻ những kinh nghiệm trong xây dựng và phát triển HTX một cách bền vững tại Việt Nam.

Bà Lê Thị Thu Hiền, Giám đốc Agriterra Việt Nam, cho biết Hà Lan tự hào có nền nông nghiệp phát triển, với dân số 17 triệu người nhưng là nước xuất khẩu nông sản lớn nhất châu Âu và đứng thứ 2 trên thế giới. Năm 2022, tổng lượng xuất khẩu lương thực và thực phẩm của Hà Lan đạt 122,3 tỷ Euro; trong đó, sữa và trứng chiếm 11,9 tỷ Euro, rau củ quả chiếm 11,5 tỷ Euro, thịt là 11 tỷ Euro, chất béo tự nhiên và dầu, đồ uống cùng chiếm 8,1 tỷ Euro.

Bà Lê Thị Thu Hiền, Giám đốc Agriterra Việt Nam.

 Hà Lan đã có 150 năm phát triển HTX, chiếm 86% phần trong nông nghiệp, hiện có nhiều HTX phát triển mạnh mẽ, có công ty nằm trong HTX. 

Hiện nay, Agriterra Việt Nam đang hỗ trợ hơn 30 đối tác và dự án, hoạt động tại 16 tỉnh thành trên cả nước. Cùng với đó, tổ chức này đang hợp tác với Lên minh HTX Việt Nam và các tỉnh, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các tổ chức chuyên môn, các nền tảng, DN…

Các chuỗi giá trị mà Agriterra Việt Nam đang hỗ trợ gồm: 2 HTX chè, 4 HTX cà phê, 2 HTX trồng trọt, 4 HTX thuỷ sản, 26 HTX lúa gạo.

Theo bà Hiền, bí quyết để các HTX tại Hà Lan thành công nhờ vào các yếu tố: Loại hình pháp nhân quyết định sự phát triển của HTX, nên cho phép nhiều loại hình pháp nhân khác nhau phù hợp với thị trường, đáp ứng nhu cầu phát triển của HTX, có nhiều HTX phát triển quy mô đa quốc gia như: FrieslandCampina là một HTX sữa đa quốc gia của Hà Lan.

Bên cạnh chiến lược duy trì chi phí thấp nhất có thể, các HTX đã phát triển 2 chiến lược khác để gia tăng thu nhập của thành viên. 

Về đổi mới sáng tạo, đa dạng hóa sản phẩm, phát triển thương hiệu sản phẩm của HTX, giúp tăng cường vị thế của HTX trong liên kết ngang (cạnh tranh với các công ty lương thực, thực phẩm khác) và liên kết dọc (với các nhà bán lẻ lớn như siêu thị).

Về chiến lược gia tăng giá trị, khi môi trường cạnh tranh thay đổi, và có sự dịch chuyển nhu cầu của người tiêu dùng về phía sản phẩm chất lượng cao, đa dạng và tiện dụng hơn. Tính đồng nhất trong các thành viên HTX, quy mô canh tác khá cao nên hạn chế sự mâu thuẫn lợi ích giữa các thành viên lớn và quá nhỏ. Mô hình liên đoàn và liên hiệp HTX phù hợp với yêu cầu thị trường, khi thị trường thay đổi, họ sẽ thay đổi và đánh giá lại.

Nội lực của các HTX ở Hà Lan có chiến lược dẫn dắt chi phí rất hiệu quả, dẫn đến việc sáp nhập hàng loạt các HTX cơ sở. Hiện nay, đối với các HTX bò sữa tại Hà Lan chỉ còn 5 HTX chiếm 86% thị phần sữa tại Hà Lan.

Ngoài ra, các HTX luôn đổi mới sáng tạo và đa dạng hoá sản phẩm. Hà Lan thuộc top 10 quốc gia đổi mới sáng tạo. Công nghệ giúp các HTX cạnh tranh với thị trường và vươn lên. Cạnh tranh được với các nhà bán lẻ và siêu thị lớn. Các HTX áp dụng chiến lược gia tăng giá trị, các sản phẩm không liên quan trực tiếp đến thành viên HTX sẽ tiến hành khi không làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của thành viên.

Điển hình như FrieslandCampina là một HTX sữa đa quốc gia của Hà Lan, là sự hợp nhất giữa Royal Friesland Foods (thành lập năm 1879) và Campina (thành lập năm 1892). Đây là một trong các HTX sữa lớn nhất thế giới và nằm trong top 5 công ty sữa có doanh thu 14 tỷ Euro (năm 2022). 

Các yếu tố giúp cho FrieslandCampina thành công trong phát triển chuỗi giá trị là tăng trưởng thông qua sáp nhập; Tăng cường độ bao phủ trong chuỗi giá trị; Nâng cao chất lượng, năng suất, tiếp cận thị trường; Đổi mới sáng tạo: đa dạng hóa sản phẩm. Hiện, tổ chức này có 120 nghìn loại sản phẩm.

Theo bà Hiền, trong bối cảnh nông nghiệp hiện nay liên tục thay đổi, thị trường yêu cầu cao hơn về chất lượng sản phẩm, truy xuất nguồn gốc. Liên kết mạnh mẽ hơn giữa DN và vùng nguyên liệu, giữa người sản xuất quy mô nhỏ với nhau.

Bên cạnh đó, thay đổi về nhu cầu của khách hàng về loại sản phẩm, hình thức sản phẩm, chất lượng, độ an toàn, khẩu vị và sự tập trung vào sản phẩm bổ dưỡng/hữu cơ.

Vì vậy, các HTX chỉ tập trung vào sản xuất không còn khả thi, bởi trên thực tế, việc bán hàng theo cách tạo ra giá trị thặng dư nhỏ không còn là cách tiếp cận theo hướng lâu dài nữa.

Do đó, người nông dân cần tạo ra sản phẩm đáp ứng được nhu cầu thị trường; Quan hệ đối tác lâu dài mới tạo điều kiện lớn nhất cho việc tăng thu nhập của các bên.

Bà Hiền cho hay, Agriterra có những công cụ phân tích đánh giá giá trị của các HTX, từ đó đưa ra một số lưu ý sau: 

Gia tăng giá trị sản phẩm tại HTX, thay vì cung cấp nguyên liệu (thô) cho bên tiếp theo trong chuỗi giá trị.

Bên cạnh đó, đổi mới sáng tạo, đa dạng hóa sản phẩm (đáp ứng hoặc mở rộng thị trường). Đồng thời, phát triển thương hiệu sản phẩm (tăng sức cạnh tranh của HTX) 

Song song với đó là thúc đẩy hợp tác giữa các HTX (nếu có thể thì hợp nhất/sáp nhập) để phát triển thành một khối HTX lớn hơn: Hiệu quả hơn về chi phí; Tăng sức mạnh đối kháng; Trở nên hấp dẫn hơn để thu hút nhân lực tài năng, lao động (trẻ).

Liên kết phát triển phù hợp với xu thế phân phối hiện đại

Ông Nguyễn Anh Đức, Tổng giám đốc Liên hiệp HTX Thương mại TP.Hồ Chí Minh (Saigon Co.op) cho biết, hiện nay, việc phát triển chuỗi cung ứng nông sản trên nền tảng KTTT gắn với hệ thống phân phối hiện đại nhận được sự quan tâm đặc biệt từ Đảng và Chính phủ. Thời gian qua, nhiều chính sách phát triển KTTT được ban hành, đó là Luật HTX 2003, Luật HTX năm 2012 và gần đây nhất là Luật HTX năm 2023 đã tạo môi trường phát triển cho các tổ chức KTTT được mở rộng và tạo nền tảng pháp lý ngày càng chặt chẽ hơn, theo đặc điểm riêng có của nước ta. Bên cạnh đó, các tổ chức KTTT nông nghiệp và phi nông nghiệp không tách rời có điều kiện thuận lợi hơn trong quá trình liên kết sản xuất và phân phối nông sản.

Ông Nguyễn Anh Đức, Tổng giám đốc Liên hiệp HTX Thương mại TP.Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, đóng góp của các HTX trong lĩnh vực thương mại điện tử vẫn còn khiêm tốn. Trong lĩnh vực thương mại hiện đại, số lượng các nhà phân phối HTX còn ít trong các loại hình siêu thị và phân phối hiện đại, ước tính các HTX có tỷ trọng đóng góp doanh số dưới 3% trong các nhà phân phối hiện đại lĩnh vực siêu thị. Ngoài ra, quy mô sản xuất của một số HTX vẫn còn nhỏ lẻ, chưa gắn được với xu hướng phát triển của thị trường, các sản phẩm của các tổ chức HTX tuyệt đại đa số là những sản phẩm cung ứng trong phạm vi địa lý hẹp và chưa đáp ứng cho thị trường phân khúc cao.

Đồng thời, đóng góp từ các HTX hoạt động trong lĩnh vực phân phối vẫn còn hạn chế.  Xét về mặt thương hiệu nội địa, thị phần của DN thuần Việt trên thực tế hiện nay chỉ còn trên dưới 20%, do loại trừ các DN có nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp lớn từ nước ngoài; trong đó, riêng Saigon Co.op là tổ chức HTX với doanh thu những năm qua đều trên 30 nghìn tỷ đồng/năm, đóng góp gần 1% doanh thu bán lẻ hàng hóa của cả nước (khoảng 4,5 triệu tỷ đồng) và khoảng 25-30% thị phần lĩnh vực siêu thị hiên đại.

Với những dữ liệu trên, ông Đức cho rằng nếu nông sản chỉ tập trung đầu ra tại các kênh phân phối hiện đại là HTX sẽ còn hạn chế trong việc phát triển và cung ứng trên thị trường, kể cả lĩnh vực xuất khẩu.

Mặt khác, quy mô sản xuất và cung ứng của các tổ chức HTX có nỗ lực lớn nhưng chưa có tính chuyên môn hóa cao; Việc liên kết giữa các HTX với các thành phần kinh tế khác bắt đầu hình thành nhưng còn ít, vì thế chuẩn mực liên kết chưa cao.

Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số lượng HTX nông nghiệp tham gia chuỗi liên kết trong giai đoạn 2018-2022 chỉ đạt 6,4% (1.250/19.431 HTX); tỷ lệ sản phẩm tiêu thụ theo liên kết còn hạn chế, có 7/13 nhóm sản phẩm có tỷ lệ tiêu thụ dưới 20%. Việc liên doanh liên kết giữa các HTX với các thành phần kinh tế khác còn rất ít, ngay cả việc hợp tác của các HTX với nhau cũng chưa được chú trọng khai thác và tận dụng đúng mức.

Theo đánh giá của Tổng giám đốc Saigon Co.op, năm 2024 được dự đoán sẽ là một năm thách thức cho thế giới với những diễn biến phức tạp khi tình hình xung đột vũ trang ở các khu vực chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, thách thức về năng lượng, kinh tế…

Để không bị tụt hậu, ông Đức cho rằng các DN, đơn vị sản xuất, nhà phân phối, các HTX cần quan tâm nắm bắt 4  xu hướng.

Thứ nhất, xu hướng phát triển nhanh của thương mại hiện đại so với thương mại truyền thống với những chuẩn mực đặc thù. Doanh thu kênh bán lẻ tạp hóa Việt Nam giai đoạn 2024-2029 dự báo tăng trưởng bình quân 6,3%, chuỗi đại siêu thị, siêu thị, minimart và cửa hàng tiện lợi tăng trưởng khoảng 9,6%.

“Nhìn chung, thị trường bán lẻ Việt Nam được đánh giá trong nhóm các thị trường có sức hấp dẫn lớn và vẫn còn trong giai đoạn phát triển mạnh trong vài năm tới. Vì vậy, việc phát triển cung ứng nông sản ở lĩnh vực thương mại hiện đại là một chú trọng bức thiết trong bối cảnh sắp tới. Bên cạnh đó, những chuẩn mực riêng đối với lĩnh vực thương mại hiện đại là thách thức thay đổi đối với các nhà cung ứng trong nước; yêu cầu về chuẩn mực hàng hóa của thương mại hiện đại cũng đòi hỏi cao hơn về chất lượng, chủng loại, sản lượng, mẫu mã, giá cả…”, ông Đức nhấn mạnh.

Thứ hai là sự phát triển nhanh của thương mại điện tử và các nền tảng bán hàng không thông qua cửa hàng vật lý. Tốc độ tăng trưởng bình quân thương mại điện tử ở Việt Nam gần 21% trong giai đoạn 2018-2023; riêng trong năm 2023, tăng trưởng 25% so với cùng kỳ, đạt 20,5 tỷ USD, chiếm khoảng 8% so với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước, nếu tính riêng bán lẻ chiếm tỷ trọng khoảng 15%, và dự báo đạt 40 tỷ USD vào năm 2027.

Chưa kể, nhiều mô hình bán hàng không có cửa hàng vật lý (máy bán hàng, bán hàng qua vô tuyến, những cửa hàng ảo, v.v..) đang dần gia tăng nhanh, là những nét chuyển biến mạnh mẽ của thị trường toàn cầu theo xu hướng phát triển hiện đại. Để đáp ứng những yêu cầu mới trong lĩnh vực thương mại điện tử và bán hàng không thông qua cửa hàng, việc thay đổi tiêu chuẩn nông sản phù hợp là lựa chọn quan trọng của các tổ chức HTX, các nhà sản xuất hàng hóa nông sản.

Thứ ba, nền tảng công nghệ, khoa học kỹ thuật đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển cuỗi cung ứng và nâng cao giá trị sản phẩm.

Theo báo cáo của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, đến năm 2020, việc chuyển đổi số trong lĩnh vực KTTT nước ta vẫn còn chậm và nhỏ lẻ. Cụ thể, trong số 1.718 HTX ứng dụng công nghệ cao chỉ có 240 HTX sử dụng phần mềm quản lý và sản xuất thông minh, chiếm 1,5%. Tuy nhiên, các HTX này cũng chỉ tập trung vào ứng dụng công nghệ tưới tiêu, hệ thống nhà lưới, dán tem truy xuất nguồn gốc, chứ chưa chú trọng ứng dụng chuyển đổi số vào khâu chế biến, quản lý HTX, kinh doanh sản phẩm.

Cuối cùng là xu hướng liên kết mở, cùng chia sẻ và phát triển dựa trên năng lực cạnh tranh cốt lõi của cá thể. Theo đó, hàng loạt mô hình kinh tế mới được xuất hiện dựa trên nền tảng kỹ thuật số, trong đó phổ biến nhất là mô hình kinh tế chia sẻ “sharing”, được phát triển nhờ việc đóng góp thành cộng đồng chung và chia sẻ nền tảng nhằm tối ưu hiệu quả sử dụng, tạo nên lợi ích chung và lợi ích riêng.

Với xu hướng phát triển đa ngành, đa nghề, đa lĩnh vực, ông Đức cho rằng các DN, HTX buộc phải quay vào củng cố nội tại, phân tích giá trị cốt lõi và lựa chọn lĩnh vực phát triển nhanh trên thế mạnh riêng có của mình; đồng thời cởi mở tham gia, đóng góp cho liên kết những giá trị hiện tại và tương lai để cùng sử dụng hiệu quả những nền tảng giá trị chung.

Từ những phân tích trên, Tổng giám đốc Saigon Cop.op đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chuẩn mực và giá trị sản phẩm nông sản, phát triển phù hợp với xu thế phân phối hiện đại trong việc liên kết phát triển chuỗi cung ứng nông sản trên nền tảng KTTT.

Cụ thể, tiếp tục hoàn thiện những cơ chế chính sách đảm bảo đồng bộ trong việc tạo điều kiện cho KTTT phát triển, đặc biệt là các tổ chức HTX tham gia vào các khâu của chuỗi cung ứng sản phẩm nông sản.

Đồng thời, kêu gọi các tổ chức HTX cùng hợp tác, với sự chủ trì của Liên minh HTX các cấp, để hình thành các tổ chức “nhóm liên minh”, “liên đoàn” nhằm hợp lực, gia tăng sức mạnh đàm phán của các tổ chức HTX và kết nối các chuẩn mực. Nhóm các HTX nhỏ, sản phẩm OCOP theo tính chất hoạt động trong một liên minh sẽ nâng cao tính hiệu quả trong quá trình đàm phán với các nhà phân phối. Xây dựng mô hình “Liên đoàn HTX” để gia tăng sức mạnh các tổ chức HTX cùng ngành nghề.

“Đây cũng chính là giải pháp căn cơ nhằm hướng tới xây dựng thành công 3 tổ chức HTX trong nhóm 300 HTX lớn nhất toàn cầu mà Nghị quyết 20-NQ/TW đã đề ra (trong nhóm 300 HTX này, phần lớn là các HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và phân phối)”, ông Đức nhấn mạnh.

Song song với đó, kêu gọi các tổ chức HTX cùng hợp tác, trên cơ sở chủ trì của Liên minh HTX các địa phương, nhằm phối hợp hình thành các sàn giao dịch hàng nông sản của các HTX và các nhà sản xuất khác, hoạt động với tính chất là điểm kết nối chung trên nền tảng công nghệ số và tổ chức dưới mô hình HTX.

Kiến nghị với Liên minh HTX Việt Nam và các bộ ngành, Tổng giám đốc Saigon Co.op nêu ý kiến: cần có những thoả thuận hợp tác có giá trị pháp lý được Chính phủ cho phép để tạo nên những hệ chuẩn mực chung cho hàng hóa nông sản có sự tham gia trong chuỗi cung ứng nông sản. Khuyến khích liên doanh liên kết huy động từ các thành phần kinh tế khác; hình thành các hệ tiêu chuẩn theo từng bước, phù hợp với định hướng chung, trên cơ sở phát huy tối đa những đặc thù riêng.

Cuối cùng là cần có những chính sách miễn giảm thuế của quá trình liên kết chuỗi cung ứng; chính sách miễn giảm các khoản chi phí liên quan phù hợp luật định... được triển khai nhằm khuyến khích hình thành tổ chức kinh tế tham gia vào chuỗi giá trị nông sản Việt Nam.

Thái độ và quy mô hợp tác đủ lớn là yếu tố sống còn trong mối liên kết 

Ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch Tập đoàn Lộc Trời, cho hay Tập đoàn Lộc Trời đi từ việc nhỏ, ngay từ giai đoạn đầu xác định là người phục vụ bà con nông dân từ giống, dịch vụ, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo yêu cầu. Dần dần, Lộc Trời khuyến khích liên kết bà con nông dân liên kết với nhau và liên kết với DN. Tuy vậy, nảy sinh nhiều vấn đề từ tư cách pháp nhân, thuế, pháp lý, tình trạng bẻ kèo… 

Ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch Tập đoàn Lộc Trời.

Vừa qua, Lộc Trời thấy nổi lên 2 vấn đề: Cần tổ chức lại từng nhóm nông dân, trong đó cần vai trò HTX. Tuy nhiên, nhiều năm không có HTX đủ lớn để cùng nhau tổ chức nông dân sản xuất, dẫn tới hiệu quả cao chưa có. Thêm vào đó, DN tham gia chưa sâu; cũng như phân chia lại lợi ích giữa người nông dân, DN và HTX còn nhiều vấn đề. 

“Thái độ hợp tác của người Việt nói chung chưa tốt, chưa kể cạnh tranh còn không lành mạnh. Lộc Trời xác định liên kết theo cùng ăn, cùng ở, cùng làm với bà con nông dân nhưng vẫn khó khăn trong chính mối liên kết của mình”, ông Thòn cho biết. 

Chủ tịch Lộc Trời nhìn nhận thái độ của người dân trong liên kết ngang không tốt. Nếu không có tổ chức HTX đủ lớn, DN không thể liên kết hiệu quả. 

Ông Thòn cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, bà con nông dân và HTX cần liên kết với nhau thật tốt tổ chức nguồn nguyên liệu, sản xuất theo đơn đặt hàng của DN. Điều đó cần sự tham gia đầu tư sâu của DN về thị trường, đầu tư cơ sở vật chất, cam kết chất lượng sản phẩm theo quy trình canh tác và yêu cầu của đơn đặt hàng. Trong đó, quy mô HTX tối thiểu phải 1.000 ha. 

Chủ tịch Lộc Trời nhìn nhận, cần bắt đầu từ ổ chức sản xuất theo chuỗi liên kết ngành hàng theo tiêu chí mà người nông dân cùng ngành nghề sản xuất, phạm vi hoạt động. Ở đó, người sản xuất có trình độ giống như “thủ lĩnh” dẫn dắt, DN bắt tay với những người đó. Đây là bậc thấp tiến lên HTX.

“Thái độ và quy mô hợp tác là nhiệm vụ sống còn mà các tổ chức xã hội, cơ quan hỗ trợ giúp cho DN để đảm bảo đủ yêu cầu kỹ thuật và tiêu chuẩn sản phẩm đặt ra”, Chủ tịch Tập đoàn Lộc Trời Huỳnh Văn Thòn nói. Đồng thời, ông kiến nghị cần có cơ chế để thực hiện cánh đồng mẫu lớn, xây dựng hệ sinh thái ngành hàng lúa gạo vững mạnh. 

Giảm bớt các điều kiện được vay vốn, cơ hội để các HTX vươn lên, nâng tầm giá trị sản phẩm 

Ông Tạ Việt Hùng, Giám đốc HTX Đầu tư Nông trại xanh và phát triển bò Ba Vì (Hà Nội), cho rằng có 3 yếu tố quyết định đến sản xuất gồm: vốn, khoa học kỹ thuật và thị trường. 

Hiện nay, HTX đang gặp một số khó khăn đó là quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, sức cạnh tranh thị trường yếu, việc tham gia chuỗi giá trị khó khăn.

Ông Tạ Việt Hùng, Giám đốc HTX Đầu tư Nông trại xanh và phát triển bò Ba Vì 

 Đặc biệt, hiện nay, việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng gặp nhiều khó khăn do nhiều HTX không đáp ứng được điều kiện của ngân hàng. 

“Thiếu vốn đầu tư vào công nghệ, đây là vấn đề nan giải cho HTX trong nhiều năm nay. Việc huy động vốn của HTX hiện nay chủ yếu là vốn góp từ các cá nhân và tổ chức, nhưng lại chưa đáp ứng được yêu cầu về sản xuất”, ông Hùng cho hay.

Theo Giám đốc HTX Đầu tư Nông trại xanh và phát triển bò Ba Vì, hiện nay, các HTX chủ yếu tiếp cận vốn từ quỹ của Liên minh HTX địa phương và Quỹ hỗ trợ phát triển HTX. HTX Đầu tư Nông trại xanh và Phát triển bò Ba Vì được Quỹ hỗ trợ phát triển HTX TP Hà Nội cho vay 500 triệu phục vụ sản xuất kinh doanh đến tháng 2/2024, HTX đã hoàn thành nghĩa vụ trả nợ. Quỹ hỗ trợ phát triển HTX Viêt Nam hỗ trợ cho vay 750 triệu mua 2 xe chuyên dụng vận chuyển hàng hoá phục vụ sản xuất kinh doanh. Tiền vay để mua phương tiện vận tải nên tài sản thế chấp được hình thành từ vốn vay, tính đến tháng 4/2024, HTX đã hoàn thành 2/3 nghĩa vụ trả nợ.

Bên cạnh khó khăn về vốn, theo ông Hùng, các HTX hiện nay còn vướng mắc về liên kết chuỗi. Bản thân giám đốc HTX cũng chưa hiểu là sản xuất chuỗi ra sao.

Cùng với đó, công tác làm thị trường và dự báo thị trường cho các HTX còn yếu kém; năng lực quản lý điều hành của HTX còn hạn chế dẫn đến phương án kinh doanh của các HTX còn yếu; công tác quản lý nhà nước về KTTT còn rời rạc, chưa đồng bộ.

Ông Hùng cho rằng, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các HTX, cần có sự vào cuộc của hệ thống chính trị, Chính phủ đưa ra chính sách điều kiện thông thoáng cho HTX vay vốn. Ngân hàng cắt giảm các thủ tục vay vốn không cần thiết, không phù hợp như việc quy định về tài sản thế chấp. 

“Hiện nay, việc vay vốn khu vực HTX chỉ chiếm 2%, vì vậy cần tăng định mức cho vay thông qua việc cho các HTX được vay vốn lãi suất thấp, cho vay theo cơ chế đặc thù vùng miền, ngành nghề vì mỗi khu vực có cơ chế, sản xuất đặc thù riêng. Đồng thời, cắt giảm thủ tục không cần thiết, và cho HTX thế chấp tài sản bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Thời gian cho vay tối thiểu 10 năm trở lên để đáp ứng được chu kỳ sản xuất”, ông Hùng kiến nghị.

Bên cạnh đó, ông Hùng kiến nghị một số giải pháp như: cơ quan quản lý tích cực hỗ trợ HTX xây dựng và tham gia vào chuỗi sản xuất. Tăng cường vai trò lãnh đạo và chỉ đạo trong khu vực KTTT. Có chính sách ưu tiên về đất đai cho HTX. Có chính đào tạo nguồn nhân lực.

Đối với HTX, ông Hùng cho rằng các HTX tập trung vào phát huy giá trị truyền thống; mạnh dạn áp dụng công nghệ cao vào sản xuất. 

HTX muốn phát triển bền vững cần “mắt xích” hội đồng cố vấn chuyên sâu

Chia sẻ câu chuyện khởi nghiệp của HTX, ông Lê Văn Việt, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc HTX Xuyên Việt (Hải Dương), kể sau hơn 10 năm lăn lộn với ngành thủy sản ở một DN lớn về chế biến và xuất khẩu thủy sản phía Nam, ông về Hải Dương với mong muốn ấp ủ nuôi trồng và chế biến sản phẩm tại quê hương.

Ông Lê Văn Việt, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc HTX Xuyên Việt 

Tuy nhiên, khi khởi nghiệp, ông Việt cho biết gặp ngay vướng mắc về chất lượng, số lượng nguồn nguyên liệu không đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước, chứ chưa nói đến xuất khẩu. Từ khó khăn này, ông Việt nhận thấy cần phải thành lập HTX năm 2011. Sau đó, xây dựng quy trình nuôi trồng thủy sản gắn với khoa học công nghệ, sau 6 tháng đạt gần 40 tấn/ha. 

Từ kinh nghiệm phát triển HTX, ông Việt cho rằng, để thu hút thêm thành viên tham gia HTX cần để bà con thấy được thực tế hiệu quả. Hiện tại, HTX Xuyên Việt có 52 thành viên, hơn 100 thành viên liên kết, với 136ha nuôi trồng, liên kết với hàng trăm ha ở Hải Dương. Sản lượng mỗi năm đạt gần 10.000 tấn, trong đó 70% là rô phi. Đến nay, HTX có 6 sản phẩm đạt OCOP.

Ông Việt đề xuất: HTX muốn phát triển bền vững cần mắt xích quan trọng là hội đồng cố vấn chuyên sâu với sự tham gia của nhà khoa học, chuyên gia, giám đốc HTX “thực chiến” giúp HTX khi mới thành lập không bị “mò đường”, loay hoay trong phát triển sản phẩm, nguồn nhân lực. Ban đầu, Hội đồng cố vốn chuyên sâu này cần thí điểm cho một số HTX ở các địa phương trọng điểm. 

Nông dân yên tâm khi tham gia chuỗi

Ông Trịnh Văn Cường, Chủ tịch HĐQT HTX nông nghiệp Vĩnh Cường Bạc Liêu.

Ông Trịnh Văn Cường, Chủ tịch HĐQT HTX nông nghiệp Vĩnh Cường Bạc Liêu cho biết, khi tham gia vào chuỗi liên kết, bà con nông dân rất yên tâm vì được HTX lo đầu vào, đầu ra cho sản phẩm. 

Trong chuỗi liên kết có 4 nhà: nhà nước, nhà nông, nhà nông nghiệp và nhà khoa học, nhưng cần bổ sung thêm nhà băng.

Hiện nay, đầu vào rất tốt nhưng tiền trả cho bà con hơi chậm một chút, vì vậy, chúng tôi mong muốn ngân hàng có sự tham gia hỗ trợ cho HTX và bà con nông dân.

Bà con nông dân thu hoạch xong cần có tiền ngay, nếu có chậm thì chỉ khoảng 7 ngày. Vì vậy, mong ngân hàng có chính sách hỗ trợ cho các HTX khi tham gia chuỗi sản xuất nông sản.

HTX cần đổi mới tư duy, nắm bắt cơ hội trong chuỗi giá trị

Bà Nguyễn Thị Hoan, Giám đốc HTX Tài Hoan (Bắc Kạn) cho biết, HTX được thành lập năm 2018, chuyên chế biến tinh bột và sản xuất miến dong, với lao động thường xuyên 35 người và hơn 2.000 thành viên liên kết. HTX được thành lập với sứ mệnh gìn giữ làng nghề truyền thống, văn hóa địa phương. Sản phẩm của HTX đạt OCOP 5 sao, xuất khẩu tới một số thị trường khó tính. 

Bà Nguyễn Thị Hoan, Giám đốc HTX Tài Hoan 

Giá thu mua ổn định từ 2.000 – 2.500 đồng/kg. HTX hoạt động với phương châm tương trợ lẫn nhau trong hoạt động kinh doanh, tăng thêm thu nhập cho các thành viên. Mô hình HTX là mắt xích quan trọng, thúc đẩy chuỗi giá trị sản phẩm. 

Nắm bắt được nhu cầu thị trường, các sản phẩm miến dong của HTX được đánh giá cao về mẫu mã, chất lượng. Vùng nguyên liệu của HTX được sản xuất theo quy trình hữu cơ, có mã vạch, tem truy xuất nguồn gốc. 

Trong bối cảnh này, HTX cần đổi mới tư duy, nắm bắt cơ hội trong chuỗi giá trị. Việc kết nối HTX với thị trường thông qua các kênh vừa là cơ hội vừa là thách thức, do trình độ nguồn nhân lực HTX còn hạn chế.

Giám đốc HTX Tài Hoan đề xuất: Để giúp bà con xóa đói giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế cần được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để bổ sung nguồn vốn lưu động của HTX mở rộng diện tích, liên kết cho bà con vùng khó khăn. Đồng thời, nâng cao trình độ năng lực cán bộ quản lý. 

Ông Mai Văn Khẩn, Giám đốc HTX Tân Tiến (Lâm Đồng)

HTX giải quyết việc làm thường xuyên cho 30 lao động, với thu nhập bình quân 9 triệu/tháng Hiện nay, HTX tham gia chương trình khuyến nông, khuyến công, áp dụng công nghệ cao. HTX có 40 ha rau trong nhà kính, liên kết với các hộ nông dân từ 60-80ha, áp dụng quy trình trồng khép kín. Ngoài ra, HTX sử dụng hệ thống tưới tiêu thông minh qua điện thoại, sử dụng phần mềm quản lý nên giảm được nhân công… 

HTX sử dụng phân hữu cơ, thuốc bảo vệ thực vật sinh học, ứng dụng khoa học kỹ thuật từ nhập giống hướng tới nông nghiệp xanh và bền vững.

Theo ông Khẩn, những năm gần đây, nông sản của các tỉnh thường xuyên đối mặt với tình trạng được mùa mất giá. Tuy nhiên, với HTX Tân Tiến, nhờ việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất chuỗi giá trị sản phẩm đã giải quyết được vấn đề này.

Tuy nhiên, HTX vẫn còn những khó khăn: Nhận thức của các thành viên HTX về chuỗi liên kết còn hạn chế. Các thành viên HTX vẫn còn tâm lý so sánh bán hàng ra ngoài khi giá cả thị trường tăng, tình trạng sản xuất manh mún nhỏ lẻ còn nhiều.

Bên cạnh đó, chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng, sản phẩm tiêu thụ qua các kênh phân phối còn hạn chế.

Theo đó, ông Khẩn đề xuất các giải pháp: tuyên truyền nâng cao nhận thức của các thành viên; Hướng tới sản xuất xanh, tuần hoàn; Tiếp tục đào tạo cán bộ, tuyển dụng cán bộ có trình độ về làm việc; Xây dựng hệ thống tái sử dụng chất thải.

Nhiều ưu đãi nhưng vì sao dư nợ cho vay HTX giảm?

Ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), cho biết phát triển KTTT, mà nòng cốt là HTX luôn được Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ quan tâm. Ban Chấp hành Trung ương và Ban Bí thư đã có nhiều Nghị quyết về phát triển KTTT như: Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX (năm 2002), Kết luận số 56-KL/TW (năm 2019), Nghị quyết số 20-NQ/TW (năm 2022) sau khi tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX. Quốc hội đã ban hành 3 Luật về HTX (Luật HTX năm 1996, năm 2012 và Luật HTX năm 2023) làm cơ sở để hoàn thiện đồng bộ chính sách pháp luật cho phát triển thành phần kinh tế này.

Ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước

Về phía ngành ngân hàng, thời gian qua đã nhận thức vai trò quan trọng của nguồn vốn tín dụng ngân hàng hỗ trợ phát triển SXKD của KTTT, luôn quan tâm đến khả năng tiếp cận tín dụng của loại hình kinh tế này, bình đẳng như mọi loại hình kinh tế khác. Theo đó, NHNN thường xuyên hoàn thiện, bổ sung và làm rõ các chính sách ưu tiên đối với HTX: ưu tiên nguồn vốn vay, chính sách ưu đãi về lãi suất, hạn mức cho vay, thủ tục cho vay, phát triển mở rộng mạng lưới TCTD tại vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa,..

Phó Thống đốc NHNN cho biết, để tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho khách hàng nói chung và HTX nói riêng, NHNN thường xuyên chỉ đạo các TCTD chú trọng nâng cao khả năng đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng nhằm tăng cường và mở rộng cho vay không tài sản bảo đảm trên cơ sở đánh giá hiệu quả kinh doanh của khách hàng, quán lý được dòng tiền và kiểm soát rủi ro; chủ động, linh hoạt áp dụng biện pháp bảo đảm tiền dòng phù hợp với quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và DN trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, nâng cao hiệu quả, rút ngắn thời gian thẩm định xét duyệt, không làm lỡ cơ hội kinh doanh của khách hàng. 

Bên cạnh đó, để tháo gỡ khó khăn về tài sản bảo đảm (TSBĐ), NHNN đã trình Chính phủ ban hành Nghị định 55/2015/NĐ-CP, Nghị định 116/2018/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn quy định:  Mức cho vay không có TSBĐ đối với HTX, Liên hiệp HTX từ 01 tỷ đồng đến 03 tỷ đồng tùy thuộc loại hình HTX, Liên hiệp HTX; cá nhân, hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn là thành viên HTX được vay không TSBĐ từ 100 đến 500 triệu đồng tùy mục đích SXKD. 

Đặc biệt, các HTX, Liên hiệp HTX liên kết chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp: Mức cho vay không có TSBĐ đối với HTX, Liên hiệp HTX tham gia mô hình liên kết chuỗi giá trị tối đa từ 70%, tham gia là đơn vị đầu mối trong chuỗi liên kết giá trị được vay không TSBĐ đến 80% giá trị của dự án vay vốn liên kết.

Đối với HTX, Liên hiệp HTX phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp hoạt động tại vùng đồng bào DTTS&MN được vay tại NHCSXH với lãi suất bằng 50% lãi suất cho vay hộ cận nghèo (3,96%/năm) theo Nghị định 28/2022/NĐ-CP.

“Theo quy định của pháp luật, các TCTD và khách hàng thỏa thuận về áp dụng hay không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay. Việc NHNN trình các cấp có thẩm quyền cho phép cơ chế đặc thù về cho vay không có TSBĐ là giải pháp tháo gỡ khó khăn, nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho khách hàng”, ông Tú nhấn mạnh. 

Mặc dù có nhiều chính sách, cơ chế cho vay ưu đãi đối với khu vực KTTT, tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng tại khu vực này vẫn còn rất khiêm tốn.

Theo con số thống kê của NHNN, đến cuối tháng 2/2024, tín dụng đối với HTX, Liên hiệp HTX đạt 6.024 tỷ đồng (1.200 HTX, Liên hiệp HTX có dư nợ), giảm 1,69% so với cuối năm 2023. 

Phó Thống đốc NHNN nhìn nhận, mặc dù tín dụng đối với HTX tuy thấp, nhưng thực chất tín dụng của ngành ngân hàng phục vụ hoạt động SXKD của HTX có thể cao hơn nhiều, được thể hiện dưới hình thức khoản vay của cá nhân thành viên HTX. 

Theo thống kê của NHNN, dư nợ tín dụng đối với cá nhân, hộ gia đình, trong đó có các cá nhân thành viên HTX đến cuối tháng 12/2023 đạt 6,4 triệu tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 46,7% tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế; trong đó dư nợ cho vay đối với cá nhân, hộ gia đình hoạt động SXKD trong khu vực nông nghiệp, nông thôn là 2,24 triệu tỷ đồng.

Liên quan đến tín dụng cho HTX còn thấp, Phó Thống đốc NHNN cho hay: “Chúng tôi cũng rất quan tâm đến lĩnh vực này, ngành ngân hàng cũng đã tổ chức nhiều diễn đàn, hội nghị bàn và tìm nguyên nhân vì sao tín dụng khu vực HTX lại rất thấp trong khi các lĩnh vực khác tăng rất nhanh”.

Ông Tú nêu vấn đề: “Ngân hàng không hạn chế cho vay HTX. Vì sao HTX lại là đối tượng không vay được vốn ngân hàng?”.

Lý giải nguyên nhân, ông Tú cho rằng tín dụng đối với HTX nói chung và HTX tham gia liên kết còn thấp ngoài nguyên nhân do liên kết còn hạn chế, quy mô nhỏ, chưa hình thành các chuỗi liên kết hoàn chỉnh, rủi ro thị trường, giá cả, phương án vay vốn kém khả thi, không hiệu quả, còn do một số nguyên nhân mà các cấp, các ngành chỉ ra trong quá trình tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX như: Vấn đề cơ chế quản lý, pháp lý và địa vị pháp lý của tổ chức kinh tế  hợp tác; năng lực quản lý, điều hành, tổ chức SXKD của HTX; Quy mô SXKD, phạm vi hoạt động hẹp; năng lực cạnh tranh còn yếu; minh bạch tài chính, kế toán, dòng tiền; Vấn đề thị trường, ứng dụng KHKT, chuyển đổi số trong hoạt động của HTX.

Trong khi theo quy định của Luật các TCTD, TCTD phải yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu, dữ liệu chứng minh khả năng tài chính, phương án sử dụng vốn khả thi, mục đích sử dụng vốn vay trước khi quyết định cấp tín dụng cho khách hàng. Theo đó, việc các HTX phải đáp ứng các yêu cầu về hồ sơ, thủ tục vay vốn là cần thiết để đảm bảo chất lượng tín dụng, an toàn hoạt động, hạn chế nợ xấu phát sinh cho các TCTD.

Để khắc phục khó khăn cho TCTD trong hỗ trợ, cho vay đối với HTX trong thời gian tới, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho rằng cần phải khắc phục từ hai phía là cơ quan Nhà nước và HTX.

Theo kiến nghị của ông Tú, cơ quan Nhà nước cần sớm hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật HTX 2023, trên cơ sở đó triển khai đồng bộ 8 chính sách, tập trung nguồn lực hỗ trợ phát triển HTX.

Thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành giảm lãi suất, triển khai cơ chế tháo gỡ khó khăn giãn, hoãn nợ cho khách hàng vay. Điều hành tín dụng tập trung vốn cho HTX hoạt động trong lĩnh vực SXKD, lĩnh vực ưu tiên; Chỉ đạo các TCTD nghiên cứu phát triển các sản phẩm tín dụng cho các mô hình HTX kiểu mới làm ăn có hiệu quả, đặc biệt những HTX phát triển các sản phẩm có thế mạnh, sản xuất theo chuỗi giá trị ứng dụng công nghệ cao, có giá trị; Đơn giản, cởi mở quy trình thủ tục cho vay.

Đồng thời, chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh cho vay HTX và các thành viên HTX, phát triển nông nghiệp nông thôn, đồng thời nghiên cứu đề xuất với Chính phủ việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 55/2015/NĐ-CP về chính sách cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, trong đó sẽ xem xét, cân nhắc mức cho vay không có TSBĐ phù hợp với thực tế.

Bên cạnh đó, chỉ đạo các TCTD tiếp tục triển khai các chương trình tín dụng đối với

ngành, lĩnh vực: mở rộng quy mô triển khai chính sách hỗ trợ nông lâm thủy sản xuất khẩu từ 15.000 tỷ lên 30.000 tỷ đồng; gói 120.000 tỷ đối với nhà ở xã hội,...

Về phía NHNN, ông Tú kiến nghị, các HTX cần đảm bảo đủ các điều kiện, yêu cầu của một tổ chức HTX (về nguồn vốn, tài sản, nguồn nhân lực, phương án sản xuất kinh doanh, chuyển đổi, ứng dụng công nghệ...).

Bên cạnh đó, đảm bảo hoạt động đúng bản chất của HTX, tăng cường liên kết, SXKD hiệu quả, minh bạch tài chính, trả nợ đúng hạn, làm cơ sở để các TCTD cho vay.

Ngoài ra, ông cho biết, cần có tổ chức bảo lãnh vay vốn cho các HTX để tăng tiếp cận vốn cho HTX. “NHNN đã ban hành khá đầy đủ các quy định, cơ chế nghiệp vụ bảo lãnh của các TCTD. Theo đó, các TCTD sẵn sàng cho vay HTX khi có bảo lãnh của bên thứ ba khi đáp ứng được các nguyên tắc về tín dụng”, ông Tú khẳng định.

Sẽ sửa đổi quy định BHXH và hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 

Ông Nguyễn Bá Hoan, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH, cho biết Bộ tiếp tục hoàn thiện Luật BHXH, các thành viên HTX được hưởng các chế độ về an sinh xã hội. Nội dung này, Bộ đang sửa đổi Luật BHXH, trong đó có 2 nội dung: người quản trị HTX và người lao động làm việc trong HTX 1 tháng trở lên là đối tượng tham gia BHXH; các đối tượng còn lại sẽ tham gia BHXH tự nguyện, trong đó bổ sung chế độ thai sản. 

Ông Nguyễn Bá Hoan, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH

Về phát triển nguồn nhân lực, Bộ LĐ-TB&XH ban hành Thông tư số 12 hướng dẫn về giáo dục nghề nghiệp, giải quyết việc làm, thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia. Hiện, Bộ đang phối hợp Bộ NN&PTNT, Liên minh HTX Việt Nam xây dựng chương trình đào tạo Giám đốc HTX, nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực này.  

Về giảm nghèo bền vững, Bộ LĐ-TB&XH bố trí kinh phí về cho địa phương triển khai dự án đa dạng hóa sinh kế, giảm nghèo bền vững; phát triển giáo dục nghề nghiệp bền vững ở khu vực khó khăn có mô hình giảm nghèo, gắn kết với DN, HTX trên địa bàn các tỉnh, thành phố. 

HTX ở Việt Nam đang phát triển cần có lộ trình

Ông Đỗ Thành Trung, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT đánh giá, các ý kiến tại Diễn đàn tập trung vào 3 nhóm: Nhóm 1 là những vướng mắc khó khăn, kiến nghị. Nhóm 2 mong muốn, giải pháp. Nhóm 3 là bài học hay từ các mô hình tại các quốc gia khác nhau với quy mô khác nhau, trong đó có vấn đề nguồn nhân lực, vốn, đất đai…

Ông Đỗ Thành Trung, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT

Ông Trung cho biết, nhiều vấn đề các đại biểu, HTX nêu đã được Bộ KH&ĐT nghiên cứu, tham mưu trình Chính phủ ban hành trong Luật HTX 2023.

Vấn đề về nguồn nhân lực, ông Trung cho hay: “Chúng ta có thiết kế chính sách cụ thể cho từng đối tượng, từng ngành nghề, quy mô HTX”. Tuy nhiên, hiện nay nhiều chương trình khác nhau đang đào tạo trong khu vực HTX không hiệu quả. Bộ KH&ĐT sẽ tiếp thu và chỉnh sửa.

Về ý kiến của các HTX, mong muốn Nhà nước hỗ trợ có tài sản để HTX tổ chức sản xuất, kinh doanh, phát triển vùng nguyên liệu, phát triển chuỗi liên kết tốt hơn, ông Trung cho hay: vấn đề này đang được đề cập trong dự thảo Nghị định. 

Về ý kiến cần thành lập hội đồng cố vấn, cơ quan soạn thảo dự thảo sẽ nghiên cứu thêm. Tuy nhiên, hiện nay, HTX ở Việt Nam đang phát triển cần có lộ trình. “Có những HTX mạnh  có lợi thế, nhưng có những HTX đang ở những bước đi đầu tiên. Hơn nữa, các HTX đang tập trung phát triển đa dạng hoá sản phẩm và mỗi sản phẩm có thế mạnh riêng, nên có yêu cầu hỗ trợ lớn đối với từng mô hình, ngành hàng, mặt hàng. Chúng tôi sẽ có nghiên cứu, tham mưu với Thủ tướng để có quy định phù hợp”, ông Trung cho hay.

Đối với các vấn đề như vay vốn, ở góc độ Bộ KH&ĐT có Quỹ phát triển HTX. Tuy nhiên, đại diện Bộ KH&ĐT nhìn nhận, hiện cho vay khó, đặc biệt là cho vay trực tiếp HTX rất khó, “Chúng tôi đang tìm hiểu lý do vì sao lại khó cho vay. Đối với tổ chức hội phụ nữ cho vay tốt nhưng với HTX lại rất khó?”, ông đặt vấn đề. 

Đồng thời, Thứ trưởng cũng lý giải một trong những nguyên nhân đó là với những HTX liên kết có DN đứng sau nên không cần vay vốn, nhưng với những HTX độc lập lại không đủ điều kiện vay vốn.

Cần cụ thể gắn trách nhiệm, tiến độ thực hiện chính sách hỗ trợ KTTT, HTX 

Phát biểu chỉ đạo tại Diễn đàn, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái biểu dương Liên minh HTX Việt Nam phối hợp với các Bộ ngành, địa phương tổ chức Diễn đàn HTX Quốc gia 2024 với chủ đề Phát triển bền vững chuỗi giá trị sản phẩm.

Phó Thủ tướng ghi nhận vai trò tích cực của Liên minh HTX Việt Nam trong tổ chức Tháng hành động vì HTX 2024, qua đó khơi dây tinh thần hợp tác trên cả nước.

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái 

Phó Thủ tướng khẳng định: Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật cho khu vực HTX, đến nay cơ chế cơ bản hoàn thiện. 

Đến cuối năm 2023, cả nước có hơn 31.000 HTX, trong đó có hơn 20.000 HTX nông nghiệp, chiếm trên 64% tổng số HTX cả nước. Sản phẩm đa dạng phong phú, giá trị cao, đáp ứng tốt yêu cầu thị trường. Cả nước có 5,3 nghìn chủ thể OCOP, trong đó HTX chiếm trên 38%. 

Khu vực KTTT, HTX khắc phục được một phần tình trạng yếu kém, đổi mới gắn với cơ chế thị trường, bảo đảm an sinh xã hội, đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế đất nước.

Trong phát triển KTTT, HTX, việc liên kết theo chuỗi giá trị mang lại nhiều lợi ích cho khu vực KTTT, HTX. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chính sách khuyến khích phát triển HTX liên kết gắn với chuỗi sản xuất từ năm 2013, hỗ trợ phát triển kinh tế HTX, ban hành chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; chính sách tín dụng; bảo hiểm nông nghiệp; chính sách hỗ trợ liên kết theo chuỗi giá trị… Các bộ, ngành, địa phương triển khai nhiều giải pháp thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị. 

Phó Thủ tướng đánh giá: Chính sách hỗ trợ hiện nay khá đầy đủ nhưng quan trọng nhất là tổ chức thực hiện.

Bên cạnh đó, số liệu thống kê cho thấy, cả nước có 4.000 HTX tham gia liên kết chuỗi giá trị, 1.449 chuỗi liên kết đối với sản phẩm chủ lực… Các hình thức liên kết chuỗi giá trị đa dạng về chuỗi cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào gắn với tiêu thụ sản phẩm theo từng nhóm chủ thể. 

Tại một số địa phương đã xuất hiện mô hình HTX kiểu mới, đem về thu nhập cho các thành viên, đóng vai trò quan trọng trong chuỗi giá trị hàng hóa quy mô lớn để xuất khẩu. Việc phát triển chuỗi sản xuất liên kết sẽ giúp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, quy mô lớn khắc phục tình trạng nhỏ lẻ, manh mún, đem về hiệu quả trong sản xuất. 

Bên cạnh kết quả đạt được, Phó Thủ tướng đánh giá, khu vực KTTT, HTX còn nhiều yếu kém như năng lực sản xuất kinh doanh còn yếu, khoa học - công nghệ hạn chế, giá trị sản phẩm trên thị trường chưa cao, liên kết giữa HTX với DN bất cập. 

Nguyên nhân là do chất lượng nguồn nhân lực khu vực HTX còn hạn chế, khó khăn tiếp cận nguồn vốn vay do không có tài sản thế chấp, hoạt động sản xuất kinh doanh thiếu bền vững; chính sách hỗ trợ liên kết chuỗi giá trị ở một số địa phương chưa được cụ thể hóa. 

Phó Thủ tướng nhìn nhận, điều kiện thụ hưởng chính sách liên kết khó khăn, còn nhiều điểm chưa rõ ràng, phổ biến chính sách, phát triển liên kết sản xuất với tiêu thụ nông sản còn hạn chế, nếu không giữ chữ tín thì không liên kết thành công; hạ tầng phục vụ sản xuất và kinh doanh còn yếu; xây dựng mã vùng trồng khó khăn; bảo hiểm nông nghiệp gắn với liên kết theo chuỗi giá trị thiếu bền vững… Trong khi đó, một số cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa quan tâm đúng mức đối với phát triển KTTT, HTX.

Phó Thủ tướng cho biết, Nghị quyết 20 về đổi mới phát triển nâng cao hiệu quả KTTT trong giai đoạn mới xác định tới năm 2030 có 140 nghìn tổ hợp tác, 45 nghìn HTX… Đây là những con số thách thức, cần sự thống nhất đồng lòng.

Luật HTX 2023 đã thể chế hóa đầy đủ 8 nhóm chính sách: hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị; Nghị quyết 09 ban hành chương trình hành động với 48 đề án xác định rõ cơ quan chủ trì nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT, trong đó đẩy mạnh liên kết theo chuỗi giá trị.

Thủ tướng đã chỉ đạo nhiều giải pháp phát triển KTTT. Do đó, Phó Thủ tướng đề nghị Bộ, ngành, địa phương bám sát, quán triệt chủ trương của Đảng, Chính phủ về chính sách phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực KTTT, HTX.

Về liên kết theo chuỗi giá trị, rà soát cơ chế chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc, phát triển bền vững chuỗi giá trị sản phẩm, Phó Thủ tướng yêu cầu cụ thể ra cơ chế chính sách, nêu rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tiến độ thực hiện. 

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Phó Thủ tướng nhìn nhận đây là yếu tố quan trọng, bởi có cơ chế chính sách mà không có nguồn nhân lực thì không thể thực hiện. Để đáp ứng yêu cầu của khu vực KTTT, cần bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, thành viên HTX cần những yếu tố gì? Theo đó, Bộ LĐ-TB&XH, Bộ GD&ĐT và khu vực HTX phải thống nhất để bổ sung thêm cách thức đào tạo. 

Tổ chức, củng cố xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, hiện nhỏ lẻ, cơ giới hóa khó nên cạnh tranh không hiệu quả. Bộ NN&PTNT, UBND các tỉnh, thành phố cần phối hợp để thực hiện hiệu quả, trong đó chú trọng tới đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đến năm 2030; vùng nguyên liệu nông lâm sản phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; đầu tư, phát triển hạ tầng, thu hút DN liên kết đầu tư triển khai tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi số vùng nguyên liệu bền vững và phát triển chuỗi giá trị sản phẩm. 

Ngoài ra, Phó Thủ tướng yêu cầu đẩy mạnh công tác truyền thông, phổ biến chính sách cần thống nhất về nhận thức và tư duy. Đồng thời, Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính cần cân đối nguồn vốn từ ngân sách nhà nước phục vụ cho phát triển chuỗi giá trị trong từng giai đoạn; UBND các tỉnh thành phố triển khai chính sách hỗ trợ, lồng ghép nguồn vốn để việc liên kết, phát triển theo chuỗi giá trị sản phẩm bền vững. 

Cùng với đó, khu vực KTTT, HTX với vai trò chủ thể, cầu nối dẫn dắt chuỗi phải chủ động nâng cao năng lực điều hành, quản lý thích ứng với xu hướng bối cảnh mới. Tổ chức sản xuất kinh doanh công khai, minh bạch; trao đổi, thương lượng, chia sẻ rủi ro bất khả kháng trong quá trình thực hiện hợp đồng liên kết. 

“Đòi hỏi ngân hàng cho vay không có tài sản đảm bảo, HTX phải hoàn vốn lại cho ngân hàng; nhà tiêu thụ đưa vốn vào để tổ chức sản xuất mà không giữ lời hứa lại quỵt tiền của họ, vậy sao mà liên kết? Đó là chữ tín trong liên kết, làm được mới thành công”, Phó Thủ tướng chia sẻ.

Đặc biệt, Liên minh HTX Việt Nam cần phát huy tốt vai trò cầu nối của Đảng, Nhà nước, bám sát khó khăn của khu vực KTTT, HTX; tiếp cận chính sách hỗ trợ của Nhà nước, tham gia hiệu quả chuỗi liên kết sản phẩm, thông qua kinh nghiệm của các tổ chức KTTT, HTX trên thế giới. 

“Chính phủ luôn khuyến khích, quan tâm tới khu vực KTTT, HTX. Làm sao để có cơ chế, chính sách, giải quyết điểm nghẽn thực hiện tốt mục tiêu, chương trình đề án do Chính phủ ban hành”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh. 

 Nhóm PV - vnbusiness.vn

 

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

link bài gốc https://vnbusiness.vn/hop-tac-xa/dien-dan-hop-tac-xa-quoc-gia-nam-2024-phat-trien-ben-vung-chuoi-gia-tri-san-pham-1099236.html