Linh thiêng thạch kinh chùa Nhất Trụ

18/04/2020 11:26

Kinhte&Xahoi Chứa khoảng 2500 ký tự, những cột kinh Phật bằng đá ở chùa Nhất Trụ (xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) trở thành niềm tự hào về văn hóa, lịch sử nước Việt.

Không chỉ đơn thuần là một biểu tượng tín ngưỡng, bảo vật này còn là minh chứng cho những đóng góp quan trọng của Phật giáo vào sự phát triển của đất nước dưới triều Lê sơ.

Tam quan chùa Nhất Trụ.

Chùa cổ ngàn năm chứa bảo vật quốc gia đầu tiên của Ninh Bình

Bảo tàng tỉnh Ninh Bình cùng các nhà khảo cổ học từ năm 1963 đến nay đã tìm thấy gần 20 cột kinh Phật nằm dưới đáy sông Hoàng Long và lòng đất Hoa Lư. Tuy nhiên, cột kinh Phật tại chùa Nhất Trụ là bảo vật có kích thước lớn nhất và hoa văn điêu khắc độc đáo hơn cả. 

Là hiện vật đầu tiên tại Ninh Bình được công nhận là bảo vật quốc gia, Cột kinh Phật bằng đá tại chùa Nhất Trụ, là hiện vật độc đáo mang nhiều giá trị về nghệ thuật kiến trúc, văn hóa và ý nghĩa lịch sử. Chùa Nhất Trụ nằm trên địa bàn thôn Yên Thành, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, thuộc quần thể di tích Cố đô Hoa Lư. Chùa cách Đền thờ vua Lê Đại Hành về phía Bắc khoảng 100m, được xây dựng từ thời Tiền Lê.


 Am thờ cột kinh trong chùa Nhất Trụ
Nghệ thuật điêu khắc đá đỉnh cao

Theo niên đại ghi trên hiện vật, cột kinh Phật chùa Nhất Trụ được vua Lê Đại Hành cho dựng vào năm 995 để cầu quốc thái dân an, triều đình vững mạnh. Cột kinh Phật này có cấu tạo độc đáo, với nhiều họa tiết trang trí tinh tế thể hiện tinh hoa nghệ thuật chạm khắc chữ trên đá của cha ông ta từ thuở xa xưa. Cột kinh Phật có giá trị to lớn về mặt lịch sử và văn hóa, là tư liệu vật chất minh chứng cho sự thịnh trị của đạo Phật ở Việt Nam vào thế kỷ X... 

Thuở tiền sử sơ khai, từ công cụ lao động tới mọi vật dụng đều được làm từ đá: rìu đá, dao đá, lưỡi cày đá... Do đó, đá chính là dư âm từ ngàn xưa còn vọng lại ngày nay và trở thành linh khí. Điều đó dễ dàng lý giải cho việc tại sao người xưa lại lựa chọn đá làm vật liệu lưu giữ những bản kinh Phật quý giá, lưu truyền tới ngàn đời sau.

Những cột kinh tìm thấy ở cố đô Hoa Lư đều được làm bằng đá xanh, bao gồm 6 bộ phận đều làm bằng đá có tuổi địa chất khoảng 300 triệu năm: tảng đế vuông, đế tròn, thân bát giác, thớt, đế trên, chóp. Hình dáng kết cấu đều giống với thạch kinh ở chùa Nhất Trụ, nhưng kích thước nhỏ hơn và không có hàng hoa văn cánh sen ở bệ dưới cùng. Điều đó cho thấy nét đặc biệt trong nghệ thuật tạo hình cũng như tính độc bản quý giá của thạch kinh chùa Nhất Trụ.

Cận cảnh cột kinh bằng đá - bảo vât quốc gia đầu tiên được công nhận tại tỉnh Ninh Bình.

Nếu các cột kinh đá khác được tìm thấy đều chỉ cao dưới 1m thì thạch kinh của Nhất Trụ tự lại lên tới 4,16m. Cột được dựng trên tảng đế dưới cùng có hình gần vuông góc mỗi chiều 140cm, dày 30cm; lỗ mộng tròn ở giữa tảng có đường kính 29cm, sâu 55cm. Đế tròn trên to dưới nhỏ, dày 32,5cm; đường kính phía trên 76cm, đường kính phía dưới 66cm.  Bên dưới đế có ngõng tròn đường kính 15,5cm, dài 3,5cm, ngõng lắp vừa khít vào lỗ mộng ở tảng đế vuông. Trên mặt đế tròn có lỗ mộng đường kính 34,5cm; sâu 9cm.

Bao quanh đế cột có vòng cánh sen đường kính 107cm, với tổ hợp 22 cánh đơn, chiều dài mỗi cánh  15-17cm, rộng 13cm. Cánh sen thon tương tự cánh sen trên một số tảng đá làm bậc đi ở trong động Am Tiên dưới thời nhà Đinh.

Thạch kinh này được đặt ở sân trước chếch về phía Tây của chùa Nhất Trụ. Giống như các cột kinh cùng được tìm thấy tại cố đô Hoa Lư, thạch kinh này cũng được tạo nên bởi 6 bộ phận bằng đá lắp gá vào nhau, đứng vững trên mặt đất: đế vuông, đế tròn, thân bát giác, đấu hoa sen 8 cánh và đỉnh hồ lô. Theo số liệu khảo sát, tất cả các bộ phận gắn với nhau hoàn toàn không sử dụng chất kết dính, nhưng rất vững chãi dù đã trải qua nghìn năm mưa gió. Điều đó có được là nhờ những ngõng kết nối tại các bộ phận của thạch kinh.

Theo TS. Đặng Công Nga (Giám đốc Bảo tàng tỉnh Ninh Bình), đây là những cánh sen xuất hiện sớm nhất ở Việt Nam trong kiến trúc nghệ thuật, các hình thức trang trí cánh sen trong kiến trúc Lý - Trần đều bắt nguồn từ đây. Quan sát kỹ sẽ thấy thân cột bát giác có số đo qua tâm hai mặt đối diện là 65cm. Hai đầu cột đều có ngõng cắm vào đế và thớt. Thớt bát giác dày 13cm, có số đo qua tâm hai mặt đối diện là 61cm (ở phía dưới) và 65cm (ở phía trên), như vậy cột có dáng trên to dưới nhỏ.  Hai đầu cột đều có ngõng cắm vào đế và thớt: ngõng dưới dài 5cm, đường kính 16cm; ngõng trên dài 6m, đường kính 18cm.

Thớt bát giác có số đo qua tâm 2 mặt đối diện là 69cm, dày 13 cm, mặt trên phẳng, mặt dưới có lỗ mộng sâu 7cm, đường kính 31cm để ngậm vào ngõng trên của thân.  Đấu cao 26cm có đường gờ miệng uốn lượn tạo nên 8 đỉnh nhọn, phía dưới được thu nhỏ tạo hình tròn, phía trên đấu có lỗ mộng tròn sâu 7cm để gắn chóp hồ lô. Chóp trên cùng đã bị mất, nhưng căn cứ vào chóp trên những cột kinh Đinh Liễn so sánh tỷ lệ với thân, các nhà khoa học đoán định chóp có hình chiếc hồ lô thóp bụng, cổ dài, miệng tù, cao 80cm, đường kính 30cm.

Chép kinh Thủ Lăng Nghiêm và kinh Đà La Ni

Trên tám mặt của thân cột khắc đầy chữ Hán, số ký tự ước tính lên tới khoảng 2.500 chữ. Tuy nhiên, trải qua thời gian hơn 1.000 năm, nửa dưới và ba mặt nửa trên cột đã bị mờ hoàn toàn. Năm mặt nửa trên còn lại cũng không đọc được nguyên vẹn. Số chữ có thể đọc được hoặc nhận dạng là 1.200 chữ.

Theo sư thầy Thích Đàm An - Trụ trì chùa Nhất Trụ thì nội dung văn tự có 3 phần: kệ, kinh, lạc khoản. Nội dung văn tự là kinh Thủ Lăng Nghiêm và Kinh Đà La Ni. Phần lạc khoản của cột kinh khắc các chữ “đệ tử Thăng Bình hoàng đế”. Phần văn tự còn nhận biết được viết: “Bát Nhã tiền việt hải chi ba huề hương… Đại Thánh Minh Hoàng đế, Lê tổ tự thừa thiên mệnh, đại định sơn hà thập lục niên lai… khê thủ phóng quang Đại Phật Đỉnh”. Tạm dịch: Thuyền Bát Nhã, trước vượt sóng biển, đã mang về bản hương (kinh)… Đại Thánh Minh Hoàng đế, tổ họ Lê, tự nhận mệnh trời, cả định non sông đến nay là 16 năm trời… cúi đầu tỏa hào quang ra từ đỉnh đầu của vị Phật lớn.

Cùng với đó, Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Mùa xuân, tháng 2 (năm 981), vua tự làm tướng đi chặn giặc… sai quân sĩ trá hàng, dụ được Nhân Bảo, đem chém… Vua đem các tướng đánh, quân của Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, bắt được tướng giặc đem về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất yên. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Minh Càn ứng vận thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng đế.

Theo nhà nghiên cứu Phạm Thị Lan Anh, từ những dữ liệu trên, các nhà khảo cổ đều nhất trí rằng, vua Lê Đại Hành, tôn hiệu Thăng Bình Hoàng Đế, chính là người đã cho dựng cột kinh ở chùa Nhất Trụ này. Phần văn tự cũng cho chúng ta biết, cột kinh được dựng vào năm 995. Chùa Nhất Trụ cũng được vua Lê Đại Hành xây dựng vào năm 995. Nhất Trụ cổ tự còn được gọi là chùa Một Cột, là một trong những ngôi chùa nổi tiếng đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia, nằm trong quần thể khu di tích Cố đô Hoa Lư. Chùa Nhất Trụ là di tích có giá trị lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đặc sắc của kinh đô Hoa Lư xưa. 

(Đón đọc: Khát vọng "quốc thái dân an" qua những cột đá kinh) 

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Nguồn: Pháp luật Plus https://www.phapluatplus.vn/van-hoa-giai-tri/linh-thieng-thach-kinh-chua-nhat-tru-d122257.html