Trước diễn biến tăng cao của giá xăng dầu thế giới, trong khi nguồn cung trong nước gặp sự cố kỹ thuật nên Bộ Tài chính đã sớm dự thảo Nghị định Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan.
Hiện Bộ Tài chính vừa nhận được 63 công văn tham gia ý kiến của các đơn vị liên quan, trong đó có 16 bộ, cơ quan ngang bộ; 39 UBND các tỉnh, thành phố; Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Hiệp hội Xăng dầu... Bộ Tài chính đang tổng hợp ý kiến tham gia của bộ, ngành, địa phương để trình Chính phủ xem xét ban hành.
Ảnh minh họa
Tuy nhiên, do dự thảo nghị định sửa đổi nhiều nội dung phức tạp, quy mô lớn, có tính kỹ thuật (biểu thuế gần 1000 trang) nên cũng cần phải rà soát kỹ. Bên cạnh đó, sau khi dự thảo được gửi xin ý kiến đã phát sinh thêm một số vấn đề cần phải tiếp tục tham vấn các đơn vị có liên quan.
Hiện giá dầu thô thế giới và giá xăng dầu thành phẩm Việt Nam còn ở mức cao, tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Việc xây dựng dự án nghị định theo trình tự, thủ tục thông thường sẽ không đảm bảo tính kịp thời, nhất là trong bối cảnh thị trường xăng dầu còn diễn biến phức tạp.
Do đó, Bộ Tài chính đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề nghị cho phép tách nội dung điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với mặt hàng xăng để ban hành một nghị định riêng theo trình tự, thủ tục rút gọn để có thể áp dụng hiệu lực ngay, không chờ để điều chỉnh theo nghị định chung về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đã được gửi xin ý kiến để kịp thời điều chỉnh thuế nhập khẩu xăng dầu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong việc tìm nguồn cung.
Theo Bộ Tài chính, vì xăng dầu vừa là mặt hàng chiến lược, quan trọng, vừa là mặt hàng thiết yếu, có tác động mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội của người dân, tác động trực tiếp đến ổn định kinh tế vĩ mô, việc giá xăng dầu tăng cao và thiếu hụt nguồn cung xăng dầu sẽ gây áp lực lớn đến chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người dân. Gián đoạn nguồn cung xăng dầu còn có thể gây đình trệ các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội.
Theo đó, Bộ Tài chính trình Chính phủ điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với mặt hàng xăng động cơ, không pha chì (thuộc mã HS từ 2710.12.21 đến 2710.12.29) từ 20% xuống 10% thay cho phương án trước đó đã gửi xin ý kiến (giảm từ 20% xuống 12%).
Việc điều chỉnh này vẫn đảm bảo có được dư địa để đàm phán các FTA mới trong tương lai và không phát sinh nghĩa vụ của Việt Nam trong các cam kết quốc tế. Đối với mặt hàng xăng động cơ, có pha chì, hiện nay gần như không có kim ngạch nhập khẩu và trong nước cũng không còn được phép sản xuất, sử dụng mặt hàng này nên Bộ Tài chính đề nghị giữ như mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN như hiện hành.
Đối với mặt hàng dầu, Bộ Tài chính trình Chính phủ tiếp tục áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 7% như hiện hành để không phát sinh nghĩa vụ trong cam kết bảo lãnh với Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn.
Hiện mức thuế nhập khẩu đối với dầu trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) và Hiệp định thương mại với Hàn Quốc đã được giảm về 0% nên kim ngạch nhập khẩu theo thuế suất thuế nhập khẩu MFN là không đáng kể.
Bộ Tài chính trình Chính phủ quy định nghị định có hiệu lực kể từ ngày ký để sớm áp dụng ngay, đồng thời không quy định thời hạn áp dụng. Bởi, theo lộ trình cam kết thì thuế suất FTA của mặt hàng xăng tại Hiệp định ATIGA sẽ được giảm xuống còn 5% vào năm 2023 và về 0% vào năm 2024 nên việc quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN 10% đối với mặt hàng xăng để áp dụng ổn định cũng là phù hợp, đảm bảo sự chênh lệch hợp lý giữa thuế suất MFN và thuế suất FTA đối với mặt hàng xăng.
Trường hợp thị trường xăng dầu thế giới có biến động bất thường dẫn đến việc phải điều chỉnh lại mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với mặt hàng xăng, Bộ Tài chính kịp thời báo cáo Chính phủ phương án điều chỉnh phù hợp.
Theo Bộ Tài chính, hiện nay tỷ trọng thuế trong giá cơ sở xăng dầu của nước ta vẫn thấp hơn mức bình quân chung so với nhiều nước trong khu vực. Tỷ trọng thuế trong giá cơ sở xăng dầu ở nhiều nước chủ yếu trong khoảng 40 - 55% đối với xăng và 35 - 50% đối với dầu (ngoại trừ một số quốc gia có trữ lượng dầu mỏ lớn thì có tỷ trọng thấp hơn).
Trong khi đó, ở nước ta, với mức thuế bảo vệ môi trường đang được giảm về mức sàn, thì tỷ trọng thuế trong giá cơ sở xăng dầu vào khoảng 19,39% đối với xăng E5RON92, 21,95% đối với xăng RON95 và khoảng 11,05% đối với dầu diesel.
Theo tính toán, với việc tỷ trọng xăng E5RON92 và xăng RON95 nhập khẩu chỉ chiếm tương ứng 14,36% và 31,7% lượng xăng tiêu thụ trong nước (tính theo số liệu quý II/2022) và hiện nay xăng đang được nhập khẩu chủ yếu từ các quốc gia đã ký kết Hiệp định FTA với Việt Nam nên việc giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN xuống 10% tuy có thể góp phần giảm giá xăng trong nước nhưng cũng chỉ ở mức thấp.
Tuy nhiên, việc điểu chỉnh giảm thuế nhập khẩu sẽ có tác động lớn tới sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của người dân; tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể nhập khẩu xăng từ nhiều quốc gia khác, qua đó thúc đẩy tính cạnh tranh để giảm giá mặt hàng này.
Hậu Lộc - TTTĐ