Thế mới biết, đặt cuộc đời dưới chân, cứ bình an,tự tại mà sống thì “con thuyền” cuộc đời sẽ đưa ta tới bến an toàn. Ngược lại, nếu cưỡng cầu, chưa đủ nhân duyên, chưa đủ phúc đức thì có muốn cũng không được.Thậm chí, còn rước họa vào thân.
Gia Cát Lượng mượn gió Đông
“Mượn gió đông”là câu chuyện thể hiện rõ nhất trí tuệ và tài năng học vấn của Gia Cát Lượng. Trong trận chiến Xích Bích kháng Tào, chủ soái Chu Du đã quyết định sử dụng kế sách hỏa công. Nhưng sau đó, Chu Du lại nghĩ đến việc vào mùa đông thông thường chỉ có gió tây bắc, rất hiếm khi thấy có gió đông nam thổi.
Trong bất giác, Chu Du không nghĩ được thêm gì, cảm thấy “tâm phiền ý loạn”nên đã cáo ốm về nằm. Tướng Lỗ Túc vội đến thỉnh Gia Cát Lượng chẩn đoán bệnh của Chu Du. Khổng Minh ngay lập tức viếttrên giấy 16 chữ: “Dục phá tào công, nghi dụng hỏa công; vạn sự cụ bị, chích khiếm đông phong.”
Ý là, muốn đánh bại quânTào, dùng hỏa công là thích hợp nhất, mọi việc đã sẵn sàng, chỉ còn thiếu gió đông. Chỉ 16 chữ, Khổng Minh đã nói hết được nỗi lòng của Chu Du khiến ông không khỏithầm nghĩ:“Gia Cát Lượng quả nhiên là thần tiên.”
Vì vậy, Chu Du thỉnh mời Gia Cát Lượng nghĩ biện pháp trợ giúp. Khổng Minh nói: “Lượng mặc dù bất tài, nhưng từng gặp được kỳ nhân đã truyền thụ cho sách trời ‘kỳ môn độn giáp", có thể kêu mưa gọi gió. Đô đốc nếu cần gió đông nam, có thể kiến tạo một bình đài gồm 3 tầng, cao 9 thước, trên núi Nam Bình sơn, lấy tên là Thất tinh đàn.
Ta sẽ ở trên đàn mượn gió đông nam 3 ngày 3 đêm để giúp Đô Đốc dụng binh. Tiên sinh thấy thế nào?” Chu Du nói: “Không cần 3 ngày 3 đêm, chỉ một đêm là đại sự có thể thành. Tình thế giao chiến vô cùng cấp bách, thỉnh xin tiên sinh tuyệt đối không chậm trễ”. Khổng Minh nói: “Ngày 20 tháng 11 tế phong, tới ngày 22 gió ngừng, tiên sinh thấy thế nào?”
Chu Du mừng rỡ, ngay lập tức lệnh cho 500 quân sĩ cường tráng đến Nam Bình Sơn xây dựng đài, đồng thời cử 200 quân sĩ canh gác, chờ lệnh. Đúng giờ cát thần ngày 20 tháng 11, Khổng Minh tắm rửa trai giới, khoác Đạo y, chân trần tiến đến trước đàn, căn dặn tướng sĩ canh giữ: “Không được tự ý rời vị trí, không được nói lời thì thầm, không được thuận miệng nói chuyện làm xáo trộn, không được làm kinh động. Người nào trái lệnh, chém đầu!”.
Sau khi mọi người nhận lệnh, Khổng Minh chậm rãi đăng đàn, xem được phương hướng liền đốt hương trong lư, rót nước vào trong bồn rồi ngửa mặt lên trời thầm khẩn cầu.Ngày hôm ấy, Khổng Minh lên xuống đàn ba lần nhưng cũng không thấy gió đông nam thổi tới. Chu Du và các tướng lĩnh vẫn đang ở trong màn trướng chờ gió đông nam. Lão tướng Hoàng Cái đã chuẩn bị sẵn 20 hỏa thuyền, tứ phía đều là binh mã Đông Ngô, vây kín như nêm cối, ai nấy đều sẵn sàng chỉ chờ hiệu lệnh.
Đêm tối hôm ấy,sắc trờisáng trong, không có một cơn gió nào thổi lên dù là gió nhẹ. Chu Du nói với tướng Lỗ Túc:“Lời Khổng Minh nói xem ra thật hoang đường. Đang mùa rét đậm, gió đông nam ở đâu thổi tới được?”
Lỗ Túc đáp: “Ta nghĩ Khổng Minh không phải người nói xằng.” Gần đến canh ba, chợt nghe tiếng gió rít lên, cờ tinh lay động theo gió. Lúc Chu Du bước ra ngoàitrướng thấy cờ bay nhưng lại bay về hướng tây bắc. Nhưng chỉ trong thoáng chốc, gió đông nam đã thổi tới ào ào. Chu Du kinh ngạc thán phục: “Người này có pháp tạo ra và biến hóa Trời Đất, thuật suy đoán quỷ thần,thần cơ diệu toán, không ai sánh nổi.” Kỳ thực, không phải Gia Cát Lượng có thể “hô phong gọi gió”mà chính là đã biết “thuận theo tự nhiên”.
Ông không có khả năng xoay chuyển càn khôn, cũng không thể mượn gió đông tới để dùng mà gió đông vốn dĩ đã có từ trước, chỉ có điều người khác không biết. Gia Cát Lượng là một người am hiểu lý lẽ của Kinh Dịch, sự thay đổi của thời tiết và lợi dụng nó để biến quân đội yếu có thể phát huy sức chiến đấu tốt nhất. Trong Kinh Dịch đề cập tới thiên văn, có 12 quẻ tương ứng với 12 tháng trong năm tương ứng với quy luật khí hậu tuần hoàn.
Theo đó tháng 1 là tháng Dần, tháng 2 Mão, tháng 3Thìn, tháng 4 Tỵ, tháng 5 Ngọ, tháng 6 Mùi, tháng 7 Thân, tháng 8 Dậu, tháng 9 Tuất, tháng 10 Hợi, tháng 11 Tý, tháng 12 Sửu. Mỗi tháng lại có 2 tiết khí tức mỗi năm có 24 tiết khí, mỗi tiết khí khoảng 15 ngày. Trong mỗi tiết khí lại có 3 hậu, mỗi hậu chiếm khoảng 5 ngày, một năm chia thành 72 hậu. Mỗi 5 ngày đó lại có sự thay đổi thời tiết tương ứng phù hợp với nguyên lý của Kinh Dịch.
Trong bối cảnh quân Tào và liên minh Tôn-Lưu tạo thế đối đầu ở Xích Bích là vào tháng 10 âm lịch, tức tháng Hợi, thuộc quẻ Khôn là một quẻ thuần âm, khí dương về trời. Lại theo nguyên lý của Kinh Dịch thì “âm cực tắc dương sinh” tức là khí âm phát triển đến cực điểm thì khí dương sẽ sinh, vì vậy thời điểm tiếp theo đó sẽ có vài ngày nhiệt độ sẽ tăng làm khí áp thay đổi và gió chuyển hướng.
Sang đến tháng 11 là thời điểm Khổng Minh lập đàn tế “mượn gió đông”là tháng Tý, có hai tiết khí là Đại Tuyết và Đông Chí. Tiết Đại Tuyết có 3 hậu: 1: Hạt Điểu Bất Minh (Chim trĩ không hót); 2: Hổ Thủy Giao, (Hổ bắt đầu giao cấu), 3: Lệ Đỉnh Xuất (Cỏ lệ mọc lên).
Trong đó Hổ Thủy Giao là 5 ngày mà âm khí đạt cực thịnh bắt đầu suy thoái, lúc này con hổ là động vật có dương khí mạnh mẽ bắt đầu đi tìm bạn tình, biểu thị dương khí đã bắt đầu sinh. Đây chính là thời điểm chuyển giao khiến gió đông nổi lên và Khổng Minh đã tận dụng cơ hội này để giúp Đông Ngô đánh bại Tào Tháo.
Thủy tổ của Đạo gia là Lão Tử đã giảng: “Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, và Đạo thuận theo tự nhiên”, lấy Đạo và tự nhiên làm khởi nguồn giá trị tinh thần của loài người. Chúng ta biết rằng văn hóa truyền thống tôn trọng “Đạo”.
Cụ thể kể đến cóThái Cực (âm dương), Hà Đồ, Lạc Thư, Chu Dịch… Những học thuyết này đều hàm chứa tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất”. Cuộc đời con người cũng như vạn vật trong vũ trụ này đều vận hành theo đồ hình dạng sin: sinh – lão – bệnh – tử, dương lên đến đỉnh sẽ thoái trào, âm xuống đến đỉnh sẽ thăng lên. Đó cũng là quy luật của tạo hóa, con người cũng chỉ là một phần tử nhỏ bé trong thiên nhiên vô cùng hóa hóa sinh sinh, cớ sao cứ mãi trầm luân trong bể khổ, không biết thoát ra.
Luận giải về chữ Duyên Trong “Trái tim của Bụt”, thiền sư Thích Nhất Hạnh luận giải về chữ Duyên: Chữ Duyên tiếng Phạn là pratyaya, tiếng Pali là paccaya. Trong kinh Bụt thường nói rất đơn giản về Duyên Khởi. Ngài nói:‘‘cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt.’’
Có khi Ngài dùng hình ảnh của một bó lau: một cọng lau, hai cọng lau, ba cọng lau nương vào nhau mà đứng vững. Khi một trong những cọng lau đổ xuống thì các cọng lau kia cũng đổ theo. Duyên nói chung là những điều kiện để cấu thành các hiện tượng về tâm cũng như thân. Trong Bốn Duyên, loại duyên thứ nhất là Nhân duyên.
Nhân tức là hạt giống từ đó sinh ra quả. Duyên là một điều kiện. Khita nói Nhân duyên thì Nhân là một thứ duyên, một điều kiện để tác thành. Điều kiện đầu tiên là có sẵn hạt giống. Ví dụ chúng ta có một hạt giống của giác ngộ, của chánh niệm trong ta.Đó là một duyên đầu, gọi là Nhân duyên. Bụt dạy rằng tất cả mọi chúng sinh đều có hạt giống của giác ngộ, của hạnh phúc.
Hạt giống đó vì còn bị ngăn trở không cho trưởng thành nên ta cứ trầm luân trong biển khổ. Chúng ta cũng có hạt giống của niềm tuyệt vọng. Nếu chúng ta cứ tự tưới tẩm hoặc để cho người khác tưới tẩm hạt giống đó, thì một ngày kia niềm tuyệt vọng cũng sẽ lớn lên, tràn lấp tâm ta và sẽ làm ta đau khổ. Chúng ta có hạt giống của giác ngộ, của niềm tin, của tình thương nhưng chúng ta cũng có hạt giống của niềm tuyệt vọng và của sự căm thù. Hạt giống đó là một điều kiện tác sinh, gọi là Nhân.
Khi gặp chuyện muộn phiền, khó khăn, hay gặp lúc bế tắc, khó xử, người ta thường buột miệng mà nóira 2 chữ: “Tùy duyên”. Đó là câu cửa miệng của rất nhiều người nhưng hiểu được ý nghĩa thâm sâu của nó lại không phải là chuyện đơn giản. Kỳ thực, tùy duyên vốn không phải chuyện dễ làm. Phải là người có cảnh giới tư tưởng nhất định thì mới thật sự thấu hiểu và làm tốt điều này.
Cái gọi là “tùy” ở đây chính là: Thuận theo tự nhiên, không oán hận, không nóng nảy, không cưỡng cầu. Vậy thế nào là“duyên”? Vạn sự, vạn vậttrên đời này thảy đều liên quan với nhau ở một chữ “duyên”. Bất luận là nhân duyên, cơ duyên, thiện duyên hay ác duyên, đâu đâu cũng có,tồn tại mọi lúc.
Nhưng duyên có tụ thì cũng có tan, có đến rồi cũng có rời. Nhưng tùy duyên cũng có hai mặt tích cực và tiêu cực. Tận tâm hành thiện, không so đo kết quả, được mất, lấy thái độ tùy duyên mà đối diện với sự đời, đây chính là tùy duyên tích cực, vừa không cưỡng cầu lại có thể nắm giữ được cơ duyên.
Trái lại, lấy lý do tùy duyên mà không làm tròn bổn phận, phó thác cho số phận, không mong cầu tiến, vươn lên, trốn tránh việc khó thì chính là một dạng cực đoan. Tùy duyên lúc này trở thành cái cớ để người ta biếng lười, phó mặc. Tùy duyên khác với tùy tiện. Tùy tiện là làm việc qua loa cho xong, được chăng hay chớ, không có nguyên tắc cũng chẳng có lập trường và không chịu trách nhiệm. Một người nọ luôn luôn phiền não vì nhân duyên với vợ không như ý.
Nhưng thay vì cố gắng cải biến nhân duyên, anh ta lại nghĩ:“Tùy duyên vậy thôi, có duyên thì ở cùng, không phận thì rời đi”. Đó cũng là thái độ không đúng đắn. Anh ta chưa từng nghĩ xem mình đã hành xử đúng mực chưa hay đang tùy tiện để cho những mâu thuẫn đưa đẩy mình đi rồi gọi đó là “duyên phận”?
Trước khi chờ vào duyên phận, hãy biết sống tốt, hãy chủ động làm một người đứng đắn, mẫu mực. Tùy duyên không phải là từ bỏ một cách vô tội vạ và tùy tiện. Tùy duyên là thuận theo nhân duyên, nhìn thấu được chuyện ly hợp của đời người, từ đó có được sự ung dung lạc quan và đứng ngoài được mất. Có trong mình một tâm thái tùy duyên, bạn sẽ nhận ra rằng, bất kể bầu trời là mây đen mù mịt hay là rực rỡ ánh vàng, con đường đời dù là trắc trở, chông gai hay thênh thang muôn lối, thì trong lòng mình luôn có được cảm giác điềm tĩnh và bình yên.
Tùy duyên là chớ nên cưỡng cầu nhưng cũng đừng quá buông xuôi, qua loa và cẩu thả. Hãy biết nắm bắt cơ hội, đối nhân xử thế thuận theo nhân duyên, ôm giữ trái tim từ bi, khoan dung và độ lượng. Đó mới chính là tùy duyên thật sự.
Với mỗi người, cuộc sống thật chẳng dễ dàng gì. Vậy nên hãy trân quý hơn sinh mệnh, trân quý hơn bản thân mình. Chúng ta chỉ có một sinh mệnh trong kiếp này. Khi đôi mi khép lại thì vĩnh viễn hơi thở sẽ chẳng còn. Bên kia cánh cửa cõi hoàng tuyền mở ra, bên này cánh cửa thế gian khép chặt, dẫu quay đầu cũng chẳng thể thấy lại những gương mặt thân thương.
Cuộc sống thật khó nhọc, ai cũng có tâm sự chất chứa trong lòng. Cuộc sống thật mệt mỏi, ai cũng có nỗi niềm riêng khó nói. Cuộc sống thật khổ sở, ai cũng có những muộn phiền, khổ đau. Cuộc sống rất mệt mỏi, xin đừng để trái tim này thêm bơ phờ. Mối quan hệ giữa người với người quá phức tạp, hà tất việc gì cũng phải bận tâm? Thế nên, hãy đối mặt với khó khăn bằng tâm thái lạc quan, khoáng đạt, đừng bận tâm quá nhiều. Những việc cần buông bỏ thì buông đi thôi.
Danh lợi tình thù cũng chỉ như bọt nước ảo ảnh trong gương mờ. Người nào đáng quên thì đừng vương vấn nữa. Thân này mệt rồi thì nghỉ chút đi thôi. Tâm này mệt rồi thì cứ ngồitĩnh lặng, đừng gồng mình lên mà gánh vác, đừng mảisuy nghĩ miên man. Khi tâm khoáng đạt thì mọi sự cũng dễ dàng hơn. Ban ngày suy nghĩ nhiều quá nên đau đầu, buổi tối nghĩ quá nhiều nên mất ngủ.
Cứ vui vẻ mà sống, đừng bận tâm quá nhiều! Mấtrồithìthôi, đã chia ly thì hãy cố tìm quên. Đừng níu kéo quá khứ mà không chịubước tiếp,đừng vương vấn chuyện xưa mà chẳng chịu buông tay. Thế nên… Hãy trân quý những gì mình có, khi ấy bạn mới có thể giảm thiểu nhiều hơn những nuối tiếc.
Hãy quên đi những gì đã mất, đôi môi mới có thể nở thêm nhiều nụ cười. Hãy trân quý hiện tại, dùng phép nhân trải rộng niềm vui, dùng phép trừ tiêu giảm hờn oán. Có ai chưa từng chịu sự đả kích, có ai chưa từng gặp phải trắc trở, truân chuyên?
Có thể sống được thì vui vẻ mà sống, chẳng thể sống được thì cũng đừng oán trách. Trái tim chỉ có bấy nhiêu thôi, chẳng thể dung nạp nhiều thứ phức tạp như vậy. Tình cảm dễ đổi thay, biết ngày sau sẽ ra sao, nên hãy trân quý những gì mình đang có!
Nguyên do thực sự của mọi đau khổ, bi ai trên đời chính là do người ta không thể buông bỏ tâm phàm, không thể tùy duyên, tùy phận. Chúng ta thường mang nặng tâm phàm, làm gì cũng không thể tùy duyên hành sự, làm việc này lại nhớ việc kia, sống ở hôm nay mà tâm lại nghĩ tưởng ngày mai và quá khứ. Như vậy, chỉ khi đối xử với mọi chuyện một cách ung dung, tự tại, tùy duyên, người ta mới tìm được sự thanh thản đích thực trong tâm hồn.
Chuyện trên đời vốn chẳng bao giờ luôn thuận buồm, xuôi gió. Trời cao không phải ngày nào cũng quang đãng, tạnh mây. Cầu vồng chỉ xuất hiện sau cơn mưa lớn. Ngày vui, ngày buồn chính là đan xen đến với nhau. Đó chính là sự“tùy duyên”của đấttrời, của vũ trụ này. Hiểu được điều ấy thì bạn ắt là thản nhiên đối diện được với đời, gặp chuyện vui cũng không quá phấn khích, ngạo mạn, trước sự buồn cũng chẳng âu sầu, bi thương vậy.
1. Giữa người với người, có thể gần, cũng có thể xa. Giữa việc với việc, có thể phức tạp, cũng có thể giản đơn. Tình cảm trong đời, có thể sâu, cũng có thể cạn.Đừng mong cầu mọi người đối xử với mình đặc biệt, cũng chẳng nên hy vọng họ sẽ bớt đi những toan tính.
2. Cuộc sống có người nói ít làm nhiều, cũng sẽ có kẻ chỉ biết hoa chân múa tay.Nhưng bạn chẳng nên quá bận lòng, hãy sống tốt cuộc đời của mình, làm tốt những việc của mình. Còn lại tất cả cứ thuận theo Đạo Trời mà tùy duyên đối đãi.
3. Có một số việc, vừa chỉ phân trần trắng đen đã thành quá khứ. Có một số người, giận hờn vài ngày đã trở thành dĩ vãng. Có những nỗi đau, vừa cười lên đã tan thành bọt nước. Có những hoàn cảnh, nhờ chịu chút thương đau mà trở nên kiên cường.
4. Có những chuyện thoạt nhìn thì rất lớn,rất hệ trọng nhưng qua một thời gian ngoảnh lại thấy chỉ như mây khói bay. Có những nỗi đau tưởng như long trời lở đất nhưng thời gian qua đi tất cả đều tan thành dĩ vãng. Vậy tùy duyên mà sống, đừng để phải thương đau.
5. Trong lúc tuyệt vọng nhất hãy nhớ rằng bạn vẫn còn có một sinh mệnh, bạn vẫn còn có một ngày mai. Thuyền đến đầu cầu ắt sẽ thẳng. Mọi chuyện đến tận cùng rồi cũng ổn, nếu còn chưa ổn thì chưa phải tận cùng. Cuối đường hầm tối như mực, bạn hãy tin vẫn còn ánh sáng le lói ở đầu kia.
6. Trên đời thực ra có một số việc không cần để tâm, có để tâm cũng chẳng thể làm gì được. Thế thì hãy buông xả, tùy duyên.
7. Làm người mê đừng mê quá sâu, mê quá sâu sẽ khó thức tỉnh. Lời đừng nói quá tận, nói tận rồi thì thương tổn nhau. Việc đừng quá tuyệt tình, tuyệt tình rồi khó có đường lui. Tình đừng đắm quá sâu, đắm chìm sâu càng khó thoát được. Lợi đừng coi quá nặng, đặt nặng rồi càng không sáng suốt. |