Liên quan đến ý kiến suất đầu tư của Cảng hàng không quốc tế Long Thành "vênh cao" hơn so với một số Cảng hàng không trên thế giới như sân bay Đại Hưng (Trung Quốc) 7 đường băng vốn đầu tư 11,7 tỉ USD. Sân bay Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) 4 đường băng cũng 12 tỉ USD trong khi sân bay Long Thành lại có vốn 15 tỉ USD. Ông Lại Xuân Thanh Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) đã đưa ra khẳng định và có lý giải về việc này.
Phối cảnh sân bay Long Thành. Ảnh: ACV
Ông Thanh đưa ra dẫn chứng rằng sân bay Đại Hưng giai đoạn 1 (vận hành khai thác từ tháng 9-2019) có tổng mức đầu tư khoảng 11,7 tỉ USD cho công suất 72 triệu hành khách/năm, tức khoảng 16,26 tỉ USD/100 triệu hành khách.
Còn sân bay Istanbul có tổng mức đầu tư khoảng 12 tỉ USD cho công suất 90 triệu hành khách/năm, tức khoảng 14,93 tỉ USD/100 triệu hành khách.
Khi hoàn thành cả 4 giai đoạn, dự án Cảng hàng không Istanbul sẽ có công suất 200 triệu hành khách/năm. Trong giai đoạn đầu đã đi vào hoạt động, được xây dựng năm 2015, công suất phục vụ hành khách đạt 90 triệu hành khách/năm với tổng mức đầu tư khoảng 12 tỷ USD.
Như vậy, quy đổi với công suất hành khách 100 triệu thì tổng mức đầu tư sẽ là 13,33 tỷ USD (100 triệu khách/năm). Nếu tính thêm trượt giá (tỷ lệ trượt giá 2%/năm theo nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) áp dụng cho dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không Long Thành giai đoạn 1) chi phí đầu tư sân bay Istanbul tại thời điểm năm 2019 là 14,93 tỷ USD.
Đối với quy mô dự án Cảng hàng không Long Thành, ông Thanh cho biết, giai đoạn 1 của Cảng hàng không Long Thành với quy mô bao gồm 1 nhà ga hành khách, 1 đường cất hạ cánh và các hạng mục công trình phụ trợ đáp ứng công suất thiết kế phục vụ 25 triệu hành khách và 1,2 triệu tấn hàng hoá với các giải pháp xây dựng và công nghệ đảm bảo tiêu chuẩn hiện đại của thế giới được áp dụng tại các sân bay của Singgapore (Changi T4) , Pháp (Gaulle), Hàn Quốc (Incheon T2), Thổ Nhĩ Kỳ (New Istanbul) đảm bảo khả năng mở rộng, nâng cấp và kết nối đồng bộ với giai đoạn 2 và giai đoạn 3.
Ông Thanh tiếp tục đưa thêm dẫn chứng tham khảo kinh nghiệm quốc tế, suất đầu tư 4,77 tỉ USD/25 triệu hành khách cho dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không Long Thành giai đoạn 1 là tương đương với suất đầu tư của các cảng hàng không lớn trên thế giới.
Cụ thể, dự án Cảng hàng không Frankfurt (Đức) giai đoạn 3 (khởi côngtháng 4/2019) có tổng mức đầu tư khoảng 4,5 tỉ USD cho công suất 21 triệu hành khách/năm, tức khoảng 5,3 tỉ USD/25 triệu hành khách.
Dự án Cảng hàng không Incheon (Hàn Quốc) giai đoạn 3 (vận hành khai thác từ tháng 1/2018) có tổng mức đầu tư khoảng 4,3 tỉ USD cho công suất 18 triệu hành khách/năm, tức khoảng 5,9 tỉ USD/25 triệu hành khách.
Dự án Cảng hàng không Long Thành khi hoàn thành cả 3 giai đoạn bao gồm 4 đường cất hạ cánh, 4 nhà ga hành khách và các hạng mục phụ trợ đảm bảo khả năng phục vụ công suất thiết kế 100 triệu hành khách/năm và 5 triệu tấn hàng hoá/năm.
Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận tất cả các sự so sánh nêu trên chỉ mang ý nghĩa tham khảo trong một giới hạn nhất định, nguyên nhân do cảng hàng không là một công trình phức hợp, nên sự khác biệt về mục tiêu đầu tư, quy mô đầu tư, phạm vi công việc thực hiện, thời điểm đầu tư, công nghệ áp dụng, các chính sách thuế, phí, dự phòng ở các quốc gia khác nhau là khác nhau nên tổng mức đầu tư sẽ khác nhau.
Được biết, dự án sân bay Long Thành khi hoàn thành cả 3 giai đoạn bao gồm 4 đường cất hạ cánh, 4 nhà ga hành khách và các hạng mục phụ trợ đảm bảo khả năng phục vụ công suất thiết kế 100 triệu hành khách/năm và 5 triệu tấn hàng hoá/năm.